Minh họa | NGUYỄN NGHĨA CƯƠNG
Minh họa | NGUYỄN NGHĨA CƯƠNG

Ánh sáng huyền

Làng nằm trọn trong thung lũng, tách biệt với các làng khác trong xã, bao quanh là những ngọn núi, nhà dân nằm rải rác chung quanh cái vòng cung tầm hơn hai trăm hộ. Muốn ra khỏi làng chỉ có một con đường duy nhất là vòng lên đèo hướng ngọn núi phía Tây.

1.

Thư trở về chừng chín giờ tối, chạy thẳng chiếc xe máy cũ vào hiên nhà bên trái. Thư đi làm công cho một chủ vựa thu mua trái cây trong xã để bỏ mối ngoài chợ huyện và xuất đi nơi khác. Gạt nhẹ chân chống xe, tính đi vào nhà thì bà Nhai đang xem ti-vi từ trong nhà ngó ra:

- Chị về rồi đấy à, sao muộn thế!

- Dạ, hôm nay hàng về nhiều. Với lại gặp mấy bác, mấy cô ngồi hỏi chuyện... Hôm nay trăng sáng trời mà mẹ...

Thư nói vừa dứt câu, lẳng lặng vòng ra phía sau nhà dưới, vội vàng vào buồng lấy áo quần ra giếng đi tắm. Cô cởi từng chiếc cúc áo trên người ra, chẳng may phát hiện bị đứt mất một cúc, bần thần nhớ lại cái cảm giác khi nãy, vừa hồi hộp, vừa lo sợ lại vừa có điều gì đó rạo rực khó tả. Thư lấy gáo múc nước trong bồn dội từ cổ chảy loang dần xuống phía dưới, bỗng người Thư nóng ran lên, mặt bừng đỏ, cô lại liên tục dội nước. Thư sững người lại, nhìn trăng sáng trên đỉnh đầu phía những ngọn cau rồi nhắm mắt tưởng tượng. Thư múc một gáo tiếp theo dội từ từ, cô tê tái run lên, một cảm giác êm ái dễ chịu chảy dọc tràn cơ thể...

- Chị làm gì ngoài ấy lâu thế, tắm nhanh còn vào nghỉ ngơi...

Tiếng nói của bà Nhai làm Thư bừng tỉnh. Thư vội tắm nhanh, mặc quần áo bước vào nhà. Thư nhìn ra cửa sổ, hương hoa bưởi dịu ngọt xông thẳng vào gian buồng hẹp. Thư nằm gối đầu phía cửa sổ, nhìn mải miết vào trăng. Trăng mười sáu sáng quá. Thư cứ miên man suy nghĩ trong đầu, những cảm giác khó tả xâm chiếm lấy Thư đến khi cô ngủ thiếp đi trong làn gió dìu dịu thổi vào từ cửa sổ, trong ánh sáng huyễn hoặc của con trăng cuối mùa xuân.

Tha về nhà nghỉ Tết mấy ngày rồi lại đi, bỏ Thư bơ vơ trong ngôi nhà lạnh lẽo. Tha làm công nhân trong thành phố, một năm về đúng hai lần, vào dịp giỗ bố anh và vào dịp Tết. Thư ở nhà với mẹ chồng, bà Nhai góa chồng lâu năm nên tính tình có vẻ khó chịu, hay cau có, cáu gắt. Tội của Thư là mãi sao không cấn chửa rồi đẻ cho bà một thằng cu.

- Nhà này vô phước, có đứa con dâu lại như con ngỗng đực, ăn ở bao năm bụng vẫn phẳng lì...

Ấy là tiếng bà Nhai cố tình nói to với mấy bà hàng xóm mỗi khi thấy Thư đứng lấp ló trong sân ngoài vườn. Thư buồn lắm, nhưng cũng chẳng biết làm gì khác ngoài chờ đợi. Mỗi đêm cô chỉ biết cầu trời khấn phật...

Một năm, hai năm, rồi ba năm, bụng Thư vẫn chưa to lên. Năm đầu tiên khi Thư theo Tha về nhà, chờ đợi mãi mà không thấy có gì khác trong người, nghe người ta bày biểu đủ cách, từ ăn uống kiêng khem cho đến các bài thuốc dân gian, kể cả kiêng cữ trong quan hệ vợ chồng, canh ngày, canh giờ, lúc sinh hoạt vợ chồng phải tư thế này, tư thế kia đủ cả. Tha và Thư cũng áp dụng nhưng nào có thấy kết quả. Mấy lúc ngồi trên bàn ăn, bà Nhai lại vô tình nhắc về chuyện con cái, Tha sợ Thư buồn nên vội đỡ lời: Con cái là trời cho mà mẹ, cứ từ từ rồi cũng có thôi...

Thư đã nóng ruột, bà Nhai còn nóng lòng hơn vì nhà bà chỉ có mỗi Tha là con trai nối dõi tông đường. Bà Nhai bảo Thư đi chùa cầu khấn cùng bà, xin bùa hộ mệnh, xin nước thánh về uống, bà còn nhờ người mối mai thầy lang có tiếng bốc thuốc bắc cả hai vợ chồng cùng uống nhưng mãi chưa hiệu nghiệm.

Làm quần quật cả năm cũng chẳng dư dả gì, làng này nghèo, lại cách biệt, cứ mãi như thế thì không ổn. Tha theo mấy ông anh con bác vào thành phố làm công nhân nhà máy, lương ổn định, mỗi tháng gửi về cho bà Nhai và Thư được vài triệu đồng. Đêm trước khi Tha đi, Thư nằm bên Tha, lòng buồn rười rượi:

- Anh đi thế này, biết khi nào mình mới có thằng cu mà bồng...

Tha quay người, ôm Thư chặt hơn vào lòng, động viên cô:

- Anh đi một thời gian thử xem thế nào, nếu được em cũng xin việc vào đấy cho vợ chồng mình gần nhau...

Tha siết Thư chặt hơn vào lòng, hôn trán, hôn má rồi hôn môi cô. Tha thì thầm vào tai Thư: Mình sinh thằng cu nhé... Tha thọt lét làm Thư nhột, cười túc túc trong căn buồng nhỏ. Đêm ấy Tha nồng nhiệt hơn mọi lần, cuộn trào hơn, bỏng cháy hơn. Bên vách tường bà Nhai còn thức, đêm khuya thanh vắng, những âm thanh lạ từ căn buồng của đôi trẻ đưa trọn vào tai bà. Nghĩ tới ngày mai con đi làm ăn xa bà Nhai bần thần trong người, bước lên nhà trên đứng trước bàn thờ chồng thắp hương khấn vái, ông phù hộ cho thằng Tha vào thành phố công việc ổn định với người ta, phù hộ cho vợ chồng chúng nó sớm có tin vui ông nhé...

2.

Nhà có thư phát, Thư đi ngược lên con dốc phía Tây ra khỏi làng đến bưu điện. Đã thành lệ, cứ cách tháng Thư lại đi nhận tiền, vì nhận đều đặn nên Thư biết là công việc của Tha vẫn tốt, tăng ca thường xuyên. Có tiền của Tha gửi, Thư sắm thêm vài cái áo mới, mặc đi ra huyện cho đỡ quê mùa với người ta.

Mấy tháng đầu khi Tha xa nhà, Thư thấy trống trải đến lạ lùng, đàn bà ở tuổi xuân tràn trề nhựa sống mà xa chồng đêm thường khó ngủ, lại nghĩ vẩn vơ đủ thứ trên đời. Tưởng như hai người đàn bà cô đơn sống trong một ngôi nhà sẽ nhường nhịn, thương yêu nhau. Lúc cưới Thư về cho Tha, bà Nhai luôn tự dặn lòng sẽ là một bà mẹ chồng tâm lý và yêu thương con dâu vì cha mẹ bà đều mất sớm trong chiến tranh, bà bơ vơ lớn lên như cái cây giữa trời, tự thích nghi mà làm lụng, học hỏi. Ấy thế mà thứ gì bà cũng giỏi, từ nữ công gia chánh, làm bánh, nấu ăn, làm vườn, nuôi gà nuôi lợn bà đều rành rõi. Nhưng vì mong cháu nội đến mức lâu dần có ác cảm với Thư, vậy nên dù sống trong một ngôi nhà có rộng đến mấy cũng thành chật, huống gì nhà của bà. Thư làm việc của Thư, bà làm việc của bà, mỗi bữa cơm có khi dọn mâm lên bát mà chẳng ai nói với ai một lời nào. Bà Nhai nhiều khi nghĩ, rước đứa con dâu về nhà mà như con ngỗng đực, thấy Thư đi qua đi lại trong nhà những lúc đang khó ở trong người mà bà thấy gai cả mắt, nếu Thư đẻ cho bà một đứa cháu nội thì có lẽ không khí trong gia đình đã khác.

Bà Nhai năm nay xấp xỉ gần sáu mươi, có tiền sử bệnh đau tim từ thời con gái. Thời ấy, bà là người lấy chồng muộn nhất, người ta còn bảo bà là gái già, gái ế. Chồng bà lên rừng đốn gỗ chẳng may bị cây đè chết. Năm ấy Tha mới tám tuổi, bà Nhai ở vậy nuôi Tha hơn hai mươi năm.

Tha học hết cấp ba thì nghỉ, bà Nhai chẳng đủ sức nuôi Tha học tiếp. Sức học của Tha cũng chỉ trung bình, nên đi làm thợ đụng, ai kêu việc gì vừa sức thì làm. Anh gặp Thư những lần thanh niên trong làng sinh hoạt chi đoàn, cộng đồng ở nhà văn hóa, bén duyên thế nào Thư lại theo anh về, nói thương tính tình anh chất phác. Đêm tân hôn, căn phòng vỏn vẹn có mấy mét vuông còn thơm mùi nước sơn gỗ mới, Thư lần đầu trao thân cho Tha trong sự ngại ngùng và e thẹn thiếu nữ.

Ban ngày vợ chồng Tha cùng bà Nhai làm cỏ, chăm sóc cây trái, rau củ ngoài vườn. Khi màn đêm buông xuống, đôi trẻ quấn lấy nhau không rời. Những rạo rực ban đầu ấy rồi cũng thành quen, sau mỗi lần ái ân, Tha quay lưng nằm ngửa ra giường, thở phì phào rồi thiếp vào giấc ngủ khi nào chẳng hay. Thư kéo nhẹ tấm áo để hờ lên ngực, mắt nhìn xa xăm ra ngoài cửa sổ, trên cao trăng tỏa dịu hiền, bất giác những nỗi buồn ùa vào lòng cô, một điều gì đó rất khó tả, không thể gọi tên...

3.

Thư xin làm công, nhận thu mua nông sản cho mẹ của Dục, từ chín giờ sáng cho đến chiều tối. Dục ở cùng xã với Thư, con bà chủ vựa thu mua trái cây. Mấy lần Thư đến vào buổi chiều, thấy Dục mặc quần đùi, cởi trần trùng trục, nâng tạ đứng trong sân. Dục có gương mặt thanh tú, khuôn hàm xanh vuông vắn, bờ ngực rắn rỏi, bắp chân chắc nịch, đôi chân mày đen và bén như cặp kiếm Nhật. Thư lén liếc nhìn Dục, nói thầm trong bụng: Người đâu đã cao to khỏe mạnh mà da dẻ lại còn trắng trẻo. Dục mở quán cà-phê ngoài trung tâm phố huyện. Nhà Dục thuộc hàng khá giả của xã, mẹ Dục buôn bán giỏi, mồm mép tay chân nhanh nhẹn, thu mua
bỏ mối đủ cả.

Từ đó, Thư gặp Dục thường xuyên, những lúc Dục từ quán cà-phê ngoài thị trấn về nhà cô cảm thấy rất vui vì Dục nói chuyện hài hước, hay pha trò. Dục bốn mươi tuổi, sống một mình và đã có gia đình. Một ngày vợ Dục dẫn theo đứa con bốn tuổi cùng mớ tiền bạc vàng vòng bỏ nhà đi mất xứ, cả phố huyện không ai biết vì sao. Riêng mẹ của Dục đi nói khắp nơi: Bỏ nhà thì chỉ có theo trai chứ làm gì.

Mỗi buổi tối đi làm về muộn, Thư phải đi ngang qua một khu vườn rậm rạp u ám. Không biết từ bao giờ, người làng đồn khu vườn ấy có ma. Đó là một khu vườn rộng, có những cây lâu năm đã thành cổ thụ, cả những cây bưởi, cây cam đang lớn được trồng đan xen, không theo hàng lối nào. Hàng chục năm về trước không biết từ đâu có một người đàn bà điên rách rưới trôi dạt đến làng này, bà đi xin ăn khắp nơi, ngủ vạ vật dưới những gốc cây ngay cả lúc trời mưa gió. Bẵng đi nhiều ngày người ta không thấy bà đâu nữa, cho đến khi lũ quạ kêu rầm trời lên ở giữa làng... Người ta bảo khi một người chết ngoài bờ ngoài bụi không nhà không cửa, âm hồn sẽ lảng vảng khắp nơi, tìm một người thay thế để được siêu thoát. Từ đó về sau, mỗi năm làng đều có người chết bất đắc kỳ tử, không bị cây đè như chồng bà Nhai, thì cũng bị tai nạn này tai nạn nọ rất thảm khốc. Có những đêm sáng trăng hay tối trời, từ khu vườn ấy phát ra những âm thanh như ma tru, quỷ gào, lại có lúc như tiếng trẻ con, tiếng mèo khóc. Người làng còn thấy những gốc cây trong vườn tự rung lên bần bật, lũ chim đêm giật mình hoảng hốt bay lên.

4.

Đến ngày giỗ bố, Tha xin nghỉ phép về nhà. Đêm hôm đó, trong căn buồng vỏn vẹn mấy mét vuông, sau những ngày xa cách, Tha vồ vập lấy Thư một cách mãnh liệt cho thỏa nhớ nhung. Đôi môi Tha tham lam mải miết, bàn tay lần mò bóp nắn khắp cơ thể vợ, Thư dịu dàng như một chú mèo ngoan trong vòng tay chồng. Thư cũng nhớ Tha nhưng cảm giác hừng hực lửa cháy như những ngày đầu tiên không còn trong cô nữa, lúc Tha lượn sóng trên thân hình đầy đặn nóng bỏng của Thư, trong lòng cô ngổn ngang những nỗi niềm.

Hơn bảy tháng sau ngày giỗ bố chồng, Thư sinh non một thằng cu trong sự vui mừng của mẹ chồng, của Tha và bà con xóm giềng. Bà Nhai khấn vái: Lạy ơn tiên tổ, cuối cùng cũng cho gia đình con được toại ý nguyện, đúng là trời phật có mắt có tai. Thằng nhỏ sinh non mà khỏe mạnh không đau yếu, đúng là lộc trời ban. Ai cũng khen thằng bé bụ bẫm đáng yêu, có nước da trắng, cặp lông mày rậm,... ăn đứt bố nó. Cha chả, cái thằng cu này bao nhiêu cái đẹp của bố của mẹ nó thừa hưởng hết. Từ khi có cháu nội, bà Nhai đổi tính đổi nết, chăm bẵm cô con dâu như chăm con gái mình. Bà không cho cô động tay động chân việc gì, việc nhà bà làm tất, suốt ngày bồng bế cháu nội trên tay. Đến khi đầy tháng, sáng nào bà cũng bế thằng nhỏ ra sân hứng nắng mai, bà tưởng như bà đang ẵm trên tay cậu bé Tha của mấy mươi năm về trước. Chỉ có những lúc một mình, Thư ngồi mông lung ngơ ngẩn, mắt nhìn xa xăm vào khoảng không trước mặt, nghĩ ngợi điều gì mà chính cô cũng không rõ.

Từ khi có bầu, Thư đã xin nghỉ phụ việc ở nhà của mẹ Dục. Mấy lần xuôi con đèo phía Tây ra khỏi làng xuống phố huyện mua sữa mua tã cho con, đi ngang quán cà-phê, Thư thấy một em nhân viên đang ngồi nhổ tóc sâu cho Dục, bèn vội vã phóng xe đi. Mỗi đêm ru con ngủ xong, Thư lại ngồi thần người ra... Bà con xóm giềng bảo thấy Thư dạo này nét dọc mày ngang hay tỏ vẻ u buồn, lo cho Thư sinh con nhỏ mà lại vắng chồng ở bên cạnh, dễ bị trầm cảm sau sinh. Bà Nhai giành phần chăm cháu, ôm thằng cu vào buồng ngủ cùng bà, cưng nựng chiều chuộng hết mực. Nghe lời hàng xóm, bà Nhai cũng để mắt đến Thư hơn, bà vừa giữ thằng cu, làm việc nhà, vừa âm thầm quan sát con dâu. Bà để ý thấy con dâu không những có dấu hiệu trầm cảm như người ta nói mà còn mắc chứng mộng du. Từ khi thằng cu được năm bảy tháng tuổi, cứ cách vài đêm Thư lại ăn vận thơm tho đi đâu ra khỏi nhà. Đặt thằng cháu nội trong nôi, vừa lúc nó đã ngủ say, bà Nhai thấy Thư nhanh nhẹn theo hướng đường mòn đi vào giữa khu vườn ma. Bà cũng tò mò lom khom nối gót Thư. Bóng đêm trong khu vườn làm bà Nhai sợ hãi, có một ánh chớp lóe lên rồi vụt tắt, Thư như người vô thức đi về phía ánh chớp đó, bà Nhai bắt đầu run sợ trong người, không lẽ ở khu vườn này có ma thật. Bà Nhai đứng từ xa, không dám bước tới gần nữa, bà nửa muốn đi tiếp nửa sợ hãi muốn quay về nhưng cứ nghĩ con dâu mình đang bị ma dẫn đường nên bà còn nấn ná ở lại xem sự thể thế nào.

Tầm vài phút sau, từ giữa vườn phát ra âm thanh rất lạ, những tiếng tru tréo kinh hoàng, vừa như tiếng người, vừa như tiếng quỷ, vừa như tiếng hoan lạc của loài mèo. Bỗng chốc, gốc cây rung lên bần bật, những loài chim đêm hoảng loạn dáo dác bay đi. Bà Nhai lấy hết can đảm chạy về phía gốc cây ấy, vì nghĩ con dâu mình đang gặp nguy hiểm. Lúc này, trăng đã bắt đầu chiếu rọi sáng tỏa trên những ngọn cây, một thứ ánh sáng huyền hoặc giữa khu vườn vắng làm người ta nổi da gà rợn người kinh sợ. Bà Nhai dò những bước thật chậm theo tiếng thở hổn hển nửa người nửa thú, nửa như tiếng oan hồn trẻ sơ sinh dưới gốc cây đang rung bần bật kia. Một con ma hình dạng người hiện ra, nó không mặc đồ trắng, đầu tóc vừa dài vừa bù xù như bà thường tưởng tượng, nó giống hệt hình dạng con người, có điều nó có cặp chân rắn chắc và hai cái đầu, một cái tóc ngắn, một cái tóc dài, mông nó đang húc mạnh vào gốc cây. Bà Nhai chưa kịp định thần, thì ánh trăng xuyên qua vòm lá rọi thẳng vào khuôn mặt con ma. Bà Nhai run lẩy bẩy, toát mồ hôi, miệng cứng đơ không nói nên lời. Con ma hai chân ấy chính là Dục, cái đầu còn lại vòng hai tay và cả hai chân tựa ôm vào thân hình người đàn ông, lưng áp vào gốc cây theo từng đợt sóng nhấp nhô rung chuyển kia chính là Thư - người đàn bà mộng du đi một mình vào vườn ma lúc nửa đêm. Bà Nhai bật đèn pin, chiếu thẳng vào con ma quái đản, miệng chưa kịp thốt lên điều gì thì cơn đau tim ập đến, tròng mắt trợn lên, miệng méo xệch, bà ngã quỵ xuống giữa khu vườn.

5.

Hôm sau, dân làng tìm thấy bà Nhai nằm chết giữa khu vườn ma dưới gốc cây mà đêm qua tự rung chuyển làm cho lũ chim đêm phải sợ hãi bay đi. Thư ngủ dậy, gọi mẹ ơi khắp xóm, rồi lo lắng nhờ hàng xóm đi tìm mẹ chồng mình. Thư bảo, mấy đêm nay cứ thấy mẹ đi đâu một mình vào lúc nửa đêm không rõ. Từ đó, người ta kháo nhau rằng, bà Nhai mắc chứng mộng du, nửa đêm bị ma đưa đường dẫn lối. Bà là con ma tiếp theo thay thế cho những linh hồn lạnh lẽo đã chết trong khu vườn này.

Tha về nhà làm đám tang cho mẹ, thằng bé chưa đầy một năm tuổi đã phải chịu tang cho bà, gương mặt trắng trẻo bụ bẫm, đôi chân mày rậm đen như cặp kiếm Nhật của nó nhìn ngơ ngác ngây thơ về phía bàn thờ đầy hương khói của bà, khói nhang làm nó lấy tay dụi dụi vì cay mắt.

Một hôm Thư ghé ngang phố huyện mua sữa cho con, nghe dân chợ xì xào chuyện Dục sa đà cờ bạc rồi nợ nần mất khả năng chi trả. Dục là chủ đường dây hụi của thị trấn, lén lút trong đêm ôm tất cả tiền góp cao chạy xa bay, biệt vô âm tín, hệt như vợ của anh ta lúc trước. Thư lặng người, nghĩ về những chuyện đã qua, giá như mọi điều chỉ là một cơn ác mộng.

Vài tháng sau ngày bà Nhai mất, thằng cu vừa tròn một tuổi, Thư theo Tha vào thành phố, vợ chồng cô sẽ bắt đầu cuộc sống mới nơi đất khách. Buổi sớm hôm ấy, Tha chở Thư cùng thằng cu vượt con đèo phía Tây lên dốc ra bến xe rời phố huyện. Vợ chồng cô đứng trên đỉnh dốc nhìn lại toàn cảnh ngôi làng nhỏ với bao nhiêu ký ức về những ngày tháng tươi đẹp, cả tuổi thơ của Thư và Tha cùng gắn bó, lớn lên, yêu nhau và về chung một mái nhà. Ở giữa làng là khu vườn ma với những thân cây cao to, vươn lên xanh ngát.

Bầu trời sớm nay cao xanh đến lạ lùng. Trên nền trời ấy, bà Nhai hiện lên với gương mặt dịu hiền, nhìn con trai con dâu và cháu nội xuôi dốc rời thung lũng. Thư ngồi trên xe ngước mắt nhìn lên bầu trời, hai bên gò má nước mắt tự dựng chảy ra trong vô thức, cô thì thầm trong miệng: Mẹ ơi, mong mẹ tha thứ cho con!

LỜI BÌNH CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG THIỀU

Mỗi vùng nhất dù nhỏ bé đến đâu cũng chứa đựng những số phận với những bi kịch và những ước mơ bình dị nhưng lớn lao.

Câu chuyện đầy bóng tối buồn bã, day dứt thổi qua ngôi làng như một ngọn gió không bao giờ dứt. Chìm sâu trong số phận của mỗi con người tưởng như không có lý do gì để sống tiếp vẫn là một giấc mơ đẹp đẽ, nhân bản và mãnh liệt không gì có thể dập tắt. Nếu không có những giấc mơ như vậy, con người không thể tìm được lý do để sống. Cho dù với hoàn cảnh sống như thế nào thì khát vọng vươn về phía những điều tốt đẹp vẫn mạnh hơn tất cả. Câu chuyện của một vài con người trong một ngôi làng nhỏ bé, xa khuất nhưng lại là câu chuyện của loài người, của thế gian. Lời xin lỗi cuối cùng của nhân vật Thư làm hiển lộ một vẻ đẹp của con người mà không gì có thể giết chết được. Khi lời xin lỗi vang lên là lúc mọi lầm lạc, bóng tối của đời sống này tan biến. Và tôi nhìn thấy những giọt nước mắt đẹp lăn trên gương mặt buồn bã của con người.