Trong bối cảnh ngành chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế, việc phát triển bền vững vùng nguyên liệu trở thành yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm nguồn cung ổn định, nâng cao giá trị gia tăng, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn, xanh và có trách nhiệm,...
Theo Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hiện tại, cả nước mới có khoảng 600.000ha rừng trồng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC và VFCS/PEFC), chiếm chưa tới 11% tổng diện tích rừng trồng. Đây là thách thức lớn trong lĩnh vực xuất khẩu gỗ, khi các thị trường xuất khẩu luôn đặt ra yêu cầu truy xuất nguồn gốc rõ ràng, bảo đảm gỗ không liên quan đến nạn phá rừng,...
Chưa tương xứng với tiềm năng
Hiện nay, diện tích rừng trồng sản xuất của Việt Nam đạt hơn 4,7 triệu héc-ta, trong đó có khoảng 3,5 triệu héc-ta rừng trồng gỗ nguyên liệu. Tuy nhiên, phần lớn diện tích này do hộ gia đình nhỏ lẻ quản lý, chưa áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật lâm sinh, năng suất và chất lượng gỗ thấp.
Một thách thức khác là các doanh nghiệp thiếu nguyên liệu, vẫn còn tình trạng khai thác gỗ non, chu kỳ ngắn, khiến phẩm cấp gỗ kém, chủ yếu sản xuất hàng giá trị thấp như dăm gỗ, ván dăm, làm giảm hiệu quả kinh tế tổng thể.
Các chuyên gia đánh giá, hiện nay, việc phát triển bền vững vùng nguyên liệu gỗ của Việt Nam gặp nhiều khó khăn, liên quan đến quỹ đất thiếu và manh mún; các địa phương chưa có tầm nhìn dài hạn khi xây dựng chính sách quy hoạch; đời sống của người dân chưa cao nên không có điều kiện liên kết, tạo ra các vùng trồng rừng gỗ lớn ổn định, chính quyền nhiều nơi chưa thật sự coi trọng công tác phát triển rừng, trong đó có việc hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trồng rừng nguyên liệu phục vụ sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu.
Giám đốc Công ty Lâm nghiệp U Minh Hạ (Cà Mau) Trần Ngọc Thảo cho biết, hiện doanh nghiệp đang quản lý diện tích hơn 24.000ha; trong đó tổng diện tích giao khoán gần 16.000ha (chiếm khoảng 66% tổng diện tích quản lý), hợp đồng giao khoán ổn định với 2.418 hộ trong thời hạn 20 năm. Chính sách này góp phần hiện thực chủ trương xã hội hóa trong lâm nghiệp của Đảng, Nhà nước trong từng thời kỳ, nhất là giải quyết đất sản xuất, canh tác cho hộ nghèo, hộ chính sách, đồng bào dân tộc; giải quyết hài hòa lợi ích nhà nước và lợi ích người dân. Năng suất rừng trồng khu vực U Minh Hạ đạt 90 đến 180 m3/ha/chu kỳ (4-6 năm), góp phần cung ứng nguyên liệu cho nhu cầu thị trường và ngành chế biến gỗ.
Tuy vậy, phần lớn các đối tượng nhận khoán là hộ nghèo, gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế, thiếu vốn đầu tư sản xuất cải tạo đất. Người dân còn hạn chế về trình độ cho nên một số hộ nhận khoán vẫn còn áp dụng tập quán canh tác sản xuất truyền thống. Mặt khác, cơ chế chính sách của Nhà nước về lĩnh vực lâm nghiệp chưa đồng bộ, kịp thời, chưa thật sự khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào kinh tế lâm nghiệp, làm giảm hiệu quả kinh tế rừng.
Tỉnh Bắc Giang có 161.177ha rừng và đất lâm nghiệp; trong đó, có gần 130.000ha rừng sản xuất. Toàn bộ diện tích đất rừng sản xuất là rừng trồng đã được các công ty lâm nghiệp giao khoán đến đối tượng là cán bộ công ty, các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn theo quy định của Nhà nước.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, đã nảy sinh hạn chế là dễ xảy ra tranh chấp, lấn chiếm đất lâm nghiệp. Một số đối tượng lợi dụng chính sách, tự nhận diện tích đất nhận khoán là của mình, có hành vi khiếu kiện đòi đất.
Việc tổ chức sản xuất, kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng kinh doanh gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn cũng như việc thực hiện quản lý rừng bền vững rất khó khăn khi thực hiện khoán trồng rừng theo chu kỳ.
Diện tích khoán trồng rừng theo chu kỳ càng nhiều thì hiệu quả sản xuất, kinh doanh càng thấp do phát sinh bộ máy quản lý và chi phí giải quyết các vi phạm.
Tương tự như Bắc Giang, một số địa phương có rừng như Thanh Hóa, Nghệ An, Gia Lai, Kon Tum,... đang gặp khó khăn trong công tác quản lý đất lâm nghiệp, nhất là tại các công ty lâm nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch vùng trồng gỗ nguyên liệu.
Theo đánh giá của Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, hiện nay một số công ty lâm nghiệp và người dân vẫn giữ phương thức sản xuất giao khoán cũ, chưa có đổi mới phương thức sản xuất, đầu tư thâm canh,... nên chưa nâng cao hiệu quả kinh tế.
Các doanh nghiệp trong ngành lâm nghiệp hầu hết quy mô nhỏ, khả năng tài chính hạn chế, thiếu kinh nghiệm, khó hình thành mô hình liên kết lớn. Các mô hình kinh doanh rừng trồng gỗ lớn cho thấy hiệu quả kinh tế cao hơn nhưng vì khó khăn về tài chính, người trồng rừng không có điều kiện mở rộng đầu tư kinh doanh, hiệu quả kinh tế thấp, chưa tương xứng với tiềm năng.
Giải pháp phát triển bền vững
Theo các chuyên gia, để thúc đẩy phát triển vùng nguyên liệu gỗ bền vững, cần sự phối hợp đồng bộ từ chính sách đến thực tiễn sản xuất, quy hoạch vùng nguyên liệu phải gắn với chế biến. Các cơ quan chức năng cần xây dựng quy hoạch tổng thể vùng nguyên liệu theo hướng tập trung, gắn kết với các trung tâm chế biến và tiêu thụ nhằm giảm chi phí vận chuyển, nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng.
Đồng thời, đẩy mạnh việc cấp chứng chỉ rừng bền vững nhằm khuyến khích và hỗ trợ các hộ trồng rừng, hợp tác xã, các doanh nghiệp tham gia chương trình cấp chứng chỉ FSC, VFCS thông qua hỗ trợ kỹ thuật, tài chính và tạo điều kiện tiếp cận thị trường tiêu thụ.
Bên cạnh đó, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và người trồng rừng; thúc đẩy mô hình liên kết theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp chế biến gỗ và người trồng rừng, bảo đảm đầu ra ổn định, giúp người dân có động lực trồng rừng theo hướng bền vững, chu kỳ dài.
Các địa phương, doanh nghiệp cần đưa tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào trồng rừng như giống cây năng suất cao, công nghệ tưới tiêu thông minh, theo dõi sinh trưởng qua vệ tinh, đi liền với phát triển hệ thống quản lý vùng nguyên liệu bằng dữ liệu số để tăng tính minh bạch và truy xuất nguồn gốc,...
Theo Cục trưởng Lâm nghiệp và Kiểm lâm Trần Quang Bảo, trong Đề án “Phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ bền vững, hiệu quả giai đoạn 2021-2030”, Việt Nam đặt mục tiêu giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản đạt 20 tỷ USD vào năm 2025. Đồng thời, hơn 80% số cơ sở chế biến, bảo quản gỗ đạt trình độ và năng lực công nghệ sản xuất tiên tiến; 100% gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước được sử dụng từ nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Bên cạnh việc xây dựng các khu chế biến công nghệ cao, mở rộng thị phần xuất khẩu, chủ động xúc tiến thương mại gỗ và sản phẩm gỗ tại các thị trường chính, ngành gỗ cần quan tâm hơn và đầu tư vào vùng nguyên liệu. Cần phát triển nhiều hơn rừng trồng gỗ lớn, rừng được quản lý bền vững và cấp chứng chỉ (FSC hoặc PEFC).
Tiêu chuẩn rừng trồng của Việt Nam càng cao, gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ càng dễ thâm nhập vào những thị trường khó tính. Trong bối cảnh khó khăn cả từ thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ và nhập khẩu nguyên liệu gỗ, việc liên kết, đầu tư để phát triển vùng nguyên liệu gỗ ổn định, bền vững đang có ý nghĩa hết sức cấp thiết.
Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm đã phối hợp các đơn vị thực hiện thí điểm việc cấp mã số vùng trồng rừng tại một số tỉnh phía bắc, tiến tới mở rộng ra toàn quốc. Nhiệm vụ này nhằm phát triển chuỗi cung gỗ hợp pháp, bảo đảm truy xuất nguồn gốc gỗ thích ứng với các yêu cầu quốc tế, cũng như phát triển phương pháp đo đếm, báo cáo và thẩm định để xác định khả năng hấp thụ, lưu trữ các-bon rừng trồng. Tuy nhiên, việc này còn khó khăn do rừng trồng chủ yếu thuộc sở hữu hộ gia đình, quy mô nhỏ.
Do đó, cơ quan chức năng kiến nghị Chính phủ đẩy mạnh đào tạo, hỗ trợ tài chính và kỹ thuật, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức đầu tư, liên kết với các hộ trồng rừng, bảo đảm nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, có chứng chỉ để cạnh tranh các sản phẩm trên thị trường quốc tế, nhất là trong giai đoạn khó khăn hiện nay,...