Việt Nam mở rộng cánh cửa hội nhập kinh tế quốc tế. (Ảnh: THẾ ĐẠI)
Việt Nam mở rộng cánh cửa hội nhập kinh tế quốc tế. (Ảnh: THẾ ĐẠI)

Việt Nam và bước ngoặt hội nhập kinh tế quốc tế

Đại hội Đảng lần thứ VI diễn ra năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng với đường lối "Đổi mới", mở ra cánh cửa để nền kinh tế Việt Nam hội nhập với thế giới.

Từ năm 1986, Việt Nam đã thiết lập những mối quan hệ quan trọng với khu vực ASEANchâu Á-Thái Bình Dương. Và dấu mốc để chúng ta đánh dấu tên mình trên bản đồ thương mại toàn cầu, đó là khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Từ đây, Việt Nam đã tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đưa Việt Nam vươn lên thuộc nhóm các nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới.

Gia nhập WTO: Mở rộng cánh cửa hội nhập

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, diễn ra năm 2006 tại Hà Nội mở ra giai đoạn phát triển mạnh và đi vào chiều sâu trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu đặt ra tại Đại hội là “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển”.

Nhấn mạnh định hướng “hội nhập kinh tế quốc tế”, từ đây Việt Nam đã triển khai quyết liệt hơn những giai đoạn trước, bằng việc thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế, trước hết là với Khu vực mậu dịch tự do ASEAN; và khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

wto.png
Năm 2006, Việt Nam chính thức ký Nghị định thư gia nhập WTO. (Đồ họa: PV)

Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức ký Nghị định thư gia nhập WTO tại Geneva (Thụy Sĩ), trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới, là bước khởi đầu quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Ngày 11/1/2007, các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên WTO chính thức có hiệu lực. Đây là dấu mốc quan trọng, mở ra một chặng đường phát triển mới trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.

Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, Chuyên gia kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định: Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, mở ra một kỷ nguyên hội nhập quốc tế toàn diện. Điều này giúp Việt Nam thiết lập thêm nhiều mối quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện, ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP…”,

Năm 2006 và 2017, Việt Nam đã đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) - nơi hội tụ các trung tâm kinh tế, thương mại và công nghệ lớn toàn cầu. Việc hai lần tổ chức hội nghị tầm cỡ quốc tế đã khẳng định nội lực và uy tín của Việt Nam, đồng thời giúp Việt Nam thúc đẩy quan hệ về chiến lược, kinh tế, thương mại và đầu tư với các quốc gia trong khối APEC.

image-2.jpg
Việt Nam tổ chức đăng cai Năm APEC 2017. (Ảnh: TRẦN ANH TUẤN)

Từ dấu mốc năm 2006 trở đi, quan hệ đối ngoại, đặc biệt về kinh tế của Việt Nam ngày càng được Đảng và Nhà nước chú trọng, rộng mở; đi vào chiều sâu và thực chất hơn nữa. Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới ở quy mô toàn cầu: là thành viên của hầu hết cơ chế hợp tác, liên kết đa phương từ khu vực, liên khu vực đến cấp độ toàn cầu (Diễn đàn Hợp tác Á-Âu, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, Liên hợp quốc, WTO …)

FTA nâng tầm xuất khẩu Việt Nam

Sau 20 năm, từ việc ra khỏi tình trạng kém phát triển, Việt Nam đã có quan hệ thương mại kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới: Ký kết, thực thi 19 Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement-FTA). Các FTA thế hệ mới, bao gồm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… đã giúp Việt Nam tiếp cận sâu rộng vào các thị trường lớn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.

Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, các Hiệp định thương mại tự do FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục, nhiều quốc gia trên thế giới với tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu. Chính các FTA này là cánh cửa giúp Việt Nam bước ra thị trường quốc tế, mở rộng xuất khẩu, cũng như đem lại cơ hội lớn về đầu tư cho Việt Nam, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước.

Đến năm 2025, Việt Nam có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 13 nước trên thế giới, tạo nền tảng vững chắc cho hợp tác trên nhiều lĩnh vực như thương mại, đầu tư, công nghệ và du lịch … và mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho Việt Nam.

image-3.jpg
Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU) được triển khai từ nhiều năm nay. (Ảnh: TRUNG HƯNG)

Theo số liệu báo cáo của Cục Thống kê, Bộ Tài chính, trong sáu tháng đầu năm 2025 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 219,83 tỷ USD, vượt xa với con số xuất khẩu cách đây 25 năm (năm 2006, xuất khẩu ở mức 39,8 tỷ USD, và nước ta vẫn trong tình trạng nhập siêu).

Ngày nay, Việt Nam đã xuất siêu, đáng chú ý có 28 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 91,7% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 9 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 72,3%).

Từ một nước nhập siêu, Việt Nam đã tích cực sản xuất, mở rộng thương mại với toàn cầu, giá trị kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng tăng lên qua từng năm và xuất khẩu hàng hóa trở thành một thế mạnh của Việt Nam trong những năm gần đây, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP hàng năm. Điều này cho thấy hội nhập kinh tế quốc tế là quyết sách đúng đắn để phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm qua.

Hai làn sóng FDI tạo động lực tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Đẩy mạnh hội nhập quốc tế còn được thể hiện mạnh mẽ thông qua mục tiêu mà Đại hội Đảng khóa X đề ra, và tiếp tục được nhấn mạnh thông qua các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo, đó là thu hút mạnh tiềm lực của các nhà đầu tư nước ngoài; cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng.

252b1a293e178d49d4065.jpg
Doanh nghiệp nước ngoài đặt niềm tin vào môi trường đầu tư tại Việt Nam. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Năm 2006, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI của Việt Nam tăng “đột biến” với tổng số xấp xỉ 10,2 tỷ USD, tăng hơn 45% so với năm 2005. Nhưng đến năm 2025, con số này đã tăng lên mạnh mẽ, là trên 38 tỷ USD.

Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, Việt Nam nổi lên như một điểm đến hấp dẫn cho các tập đoàn đa quốc gia chuyển dịch chuỗi sản xuất, đặc biệt trong các ngành công nghệ cao như điện tử và bán dẫn (ví dụ: Apple, Samsung, Intel, LG, Nike, Adidas). Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các thành phần kinh tế và luôn đạt trạng thái xuất siêu, góp phần kéo giảm nhập siêu chung của cả nước trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO và dần dần trở thành nước xuất siêu thương mại hàng hoá trong 9 năm liên tiếp tính đến 2024.

c5f8e844f97b72252b6a.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định Việt Nam là điểm đến thu hút FDI trong nhiều năm qua.

"Việt Nam nổi lên như một điểm đến hấp dẫn cho các tập đoàn đa quốc gia chuyển dịch chuỗi sản xuất, đặc biệt trong các ngành công nghệ cao như điện tử và bán dẫn (ví dụ: Apple, Samsung, Intel, LG, Nike, Adidas). Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các thành phần kinh tế và luôn đạt trạng thái xuất siêu, góp phần kéo giảm nhập siêu chung của cả nước trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO và dần dần trở thành nước xuất siêu thương mại hàng hoá trong 9 năm liên tiếp tính đến 2024"

Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Vafie) thông tin: “Việt Nam có nguồn nhân công chất lượng, chi phí đào tạo và chất lượng đào tạo tốt, giá nhân công hợp lý. Việt Nam có nền chính trị, xã hội ổn định, là một đối tác tin cậy với nhiều quốc gia trên thế giới và đang trên đà cải cách, tạo mọi điều kiện thuận lợi tốt nhất để thu hút đầu tư”.

Việt Nam ngày càng trở thành điểm đến an toàn, hấp dẫn của đầu tư và kinh doanh quốc tế khi nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI lớn nhất thế giới và hàng đầu trong khu vực ASEAN.

Bứt phá ngoạn mục của kinh tế Việt Nam

Việc hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2006 đã góp phần đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việt Nam chính thức ra khỏi tình trạng chậm phát triển từ năm 2008, gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp trên thế giới.

Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển.

6f46e403b932096c50237.jpg
Thành phố Hồ Chí Minh - Trung tâm kinh tế lớn của cả nước. (Ảnh: Thành Đạt)

Việc phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao; hay tài chính, ngân hàng, viễn thông... đã hình thành và phát triển mạnh mẽ.

Quy mô, đóng góp của doanh nghiệp tư nhân trong nước ngày càng vượt trội. Đến năm 2025, khu vực này bao gồm gần 1 triệu doanh nghiệp và 5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% lực lượng lao động.

Thành quả rõ ràng nhất chính là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết: “Sau giai đoạn lạm phát hai con số (năm 2011 đạt 18,13%), Việt Nam đã kiềm chế thành công, đưa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) xuống mức 0,60% vào năm 2015. Kết quả này là một nhân tố quan trọng giúp ổn định kinh tế vĩ mô. Sự ổn định này tiếp tục được duy trì, thậm chí trong bối cảnh đại dịch Covid-19, lạm phát vẫn ở mức thấp dưới 4% theo mục tiêu hàng năm của Chính phủ”.

Cùng với đó kinh tế đất nước tăng trưởng nhanh chóng. Theo Bộ Tài chính, giai đoạn 2006-2010, bình quân thời kỳ 2006-2010, tăng trưởng kinh tế đạt 7,01%/năm.

Đến giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân của Việt Nam ước khoảng 6,0%/năm, trong đó bốn năm 2021-2024 đạt 5,7%/năm, dự báo năm 2025 tăng khoảng 8%, thuộc nhóm các nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới.

Về quy mô GDP, năm 2006 đạt 66 tỷ USD; đến năm 2020 tăng lên 346 tỷ USD, đứng thứ 37 thế giới. Năm 2023, GDP tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt 433 tỷ USD và vươn lên vị trí thứ 34. Dự kiến đến năm 2025, quy mô GDP sẽ vượt 500 tỷ USD, gấp 1,45 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN.

Ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành khoa Tài chính-Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi đánh giá, giai đoạn 2006-2025 đánh dấu hành trình tăng trưởng bứt phá của Việt Nam, khi GDP bình quân đầu người tính theo USD danh nghĩa từ mức khoảng 700 USD năm 2006 vươn tới giả định 5.000 USD năm 2025, tức tăng hơn 7 lần trong chưa đầy hai thập kỷ, tương đương mức tăng bình quân hằng năm ở ngưỡng hai con số. Đây không chỉ là thành quả kinh tế đơn thuần, mà còn là minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ kiến tạo, Chính phủ hành động, và tinh thần đổi mới sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp.

7bcba1b4049f8fc1d68e.jpg
Ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành khoa Tài chính-Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi bày tỏ niềm tin vào sự tăng trưởng bứt phá của Việt Nam.

"Giai đoạn 2006-2025 đánh dấu hành trình tăng trưởng bứt phá của Việt Nam, khi GDP bình quân đầu người tính theo USD danh nghĩa từ mức khoảng 700 USD năm 2006 vươn tới giả định 5.000 USD năm 2025, tức tăng hơn 7 lần trong chưa đầy hai thập kỷ, tương đương mức tăng bình quân hằng năm ở ngưỡng hai con số. Đây không chỉ là thành quả kinh tế đơn thuần, mà còn là minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ kiến tạo, Chính phủ hành động, và tinh thần đổi mới sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp"

Ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành khoa Tài chính-Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi

Số liệu khác cho thấy, nếu tính theo sức mua tương đương (PPP), quy mô GDP năm 2025 của Việt Nam khoảng 1.760 tỷ USD, xếp thứ 25 thế giới. Cùng với tăng trưởng kinh tế, GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng tăng từ mức hơn 3.700 USD năm 2021 lên khoảng 4.900 USD vào năm 2025.

Thu nhập trung bình của người dân là một thước đo phản ánh rõ nét sự phát triển của đất nước. Theo thống kê, thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người của Việt Nam năm 2006 đạt 760 USD, dự kiến đạt khoảng 4.650 USD vào năm 2025, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (dự kiến đến năm 2025, ngưỡng thu nhập trung bình cao của Ngân hàng Thế giới khoảng 4.600 USD/người).

“Mức thu nhập này của người dân Việt Nam tăng lên nhanh chóng, phản ánh rõ hơn mức sống thực tế và lợi thế chi phí, đồng thời đưa Việt Nam tiến sâu vào nhóm nước thu nhập trung bình khá. Điều này không chỉ cải thiện đời sống người dân, mà còn nâng vị thế quốc gia trên bản đồ kinh tế thế giới”, ông Nguyễn Quang Huy nhận định.

Những số liệu trên cho thấy, hai mươi năm kế thừa và kiên trì chính sách mở cửa hội nhập, với hàng loạt những quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đã có những tác động mạnh mẽ, giúp Việt Nam mở rộng cánh cửa tiếp cận với thông lệ kinh tế quốc tế. Từ một nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, Việt Nam đã phát triển toàn diện trên mọi ngành nghề, lĩnh vực, nhanh chóng vươn lên, trở thành điểm sáng kinh tế trong khu vực và trên thế giới.

Với tầm nhìn chiến lược cho kỷ nguyên vươn mình, Việt Nam đang đứng trước cơ hội để bứt phá, để khẳng định vị thế một nền kinh tế năng động, hội nhập và phát triển.

Xem thêm