Nhật Minh biết nhiều, liên tưởng rộng, đúng vai một “tổng kho văn nghệ”. Anh là người đa năng, viết báo, tản văn, bút ký, vẽ, làm thơ nhưng không viết, vẽ để thành “nhà”, mà chỉ như một cách chơi.
Trần Nhật Minh ít làm thơ nhưng anh chưa bao giờ bỏ thơ. Với anh, thơ là thể cách riêng để nói lên những ẩn mật tâm hồn, nhưng cũng là một cuộc tình tay ngang. Nhật Minh viết không nhiều, nhưng với thơ, anh đã kiến tạo nên một hệ sinh thái tâm hồn của một người xưa bóng cũ, phảng phất lãng mạn cổ điển. Thơ anh không kỹ thuật, mà nảy ra bởi dòng suy cảm tự nhiên. Và bởi tự nhiên, cho nên, trước hết, nó đậm về xúc cảm. Dễ nhận ra, chủ thể trữ tình xuyên suốt trong thơ anh là chàng trai lãng mạn, đa cảm, đa mang: “Tôi như lạc mùa/ xa xăm trở lại/những tháng thật xưa/ những ngày thật cũ/ tìm xác cơn mưa/ khô theo lá rũ/ bức tường còn nguyên/ bóng người tan tác/môi hồng còn duyên/ nụ cười đã nhạt” (Lạc mùa); “Những đồ đạc ngẩn ngơ ký ức/ Xếp lại làm sao phút ban đầu/ Trang giấy thở bài thơ còn thắm mực/ Hành lý gió sương vệt bụi ga tàu/ Khi trở lại vẫn còn nguyên mùi cũ/ Ta chả có gì chỉ ký ức mang theo” (Ký ức).
Thơ Nhật Minh là sự hiện hữu những khoảnh khắc thầm kín của tâm trạng. Chủ thể trữ tình trong thơ anh, do thế, luôn mang mang vơi đầy nỗi nhớ niềm thương: “Tôi lớn lên hàng cây đã xanh rồi/ Lá vẫy gọi ngàn trùng trong tiếng gió/ Khẽ thì thầm giọng người yêu bé nhỏ/ Kể tôi nghe bí mật những con đường/... Giờ những hàng cây đổ gục chỗ tôi ngồi/ Bao xác lá dội về như ký ức/ Lại như thuở bên cỏ chiều thổn thức/ Phố ngẩn ngơ hoang vắng gọi xanh về...” (Gọi xanh về). Ở đó, sự giày vò của thời gian không làm nhạt phai cái nhìn lãng mạn của chàng trai văn khoa tuổi đôi mươi năm nào: “Qua ô cửa/Tôi chạm vào mùa đông rét mướt/ Những giọt mưa run rẩy/ Đậu lên phím tay em/Từng thanh âm trầm/ Qua từng ngón nhỏ/Từng lá rơi thầm/ Nghiêng qua chiều gió/Qua ô cửa lạnh/ Bóng em soi/ Gương mặt tôi năm tháng...” (Ô cửa mùa đông).
Thơ Trần Nhật Minh là thơ của kỷ niệm và hoài niệm. Đằng sau con chữ, dường như luôn có một chủ thể trữ tình - kẻ mắc nợ ân tình với ngày xưa tháng cũ: “Hơi người/ Náu góc bếp xưa/ Ấm một vùng lửa đỏ/ Ngọn khói đói lưa thưa/ Níu bờ tường sạm gió” (Bếp xưa).
Nhật Minh ưa quan sát, suy tư. Một cách tự nhiên, thơ anh bật ra từ những suy tư thế sự: “Kìa những con mắt cá/ Mở trừng hướng biển khơi/ Cá khóc nước mắt đắng/ Trên bờ đau nghẹn lời/ Kìa những linh hồn cá/ Oán hờn giữa biển sâu/ Cá khóc đại dương đói/ Giữa chớp giông nguyện cầu/ Kìa bạc đời như cá/ Xác vùi trong cát nghèo/ Kiếp này rồi kiếp khác/ Hồn nhằm cột buồm treo...” (Nước mắt cá); hay những cảm niệm đậm chất triết lý nhân sinh: “Mấy thước vuông/ Bạc phơ vùng mây rối/ Những góc nghĩ không thành/ Đời người luẩn quẩn/ Cuối đất cùng trời/Lại mấy thước vuông/ Cỏ xanh bạn hữu/ Khóc khóc cười cười...” (Mấy thước vuông); Những pho tượng im lời/ Còn sen thì câm lặng/ Bao sướng khổ trong đời/ Đổi một mùa thanh vắng (Sen).
Sinh ra và lớn lên ở phố, nhưng Nhật Minh không mang trong mình những hào nhoáng hư ảo về phố, mà luôn trĩu nặng u hoài căn cước phố. Không khó nhận ra, phố đẹp trong anh là phố của ngày xưa. Xà cừ. Long não. Hàng me. Dải sương mờ đục như bụi trắng. Trong gió tiếng chuông ngân. Những cuộc trà trên căn gác cũ... Để rồi, mãi sau này, trong những giấc mơ, gã trai già phố cổ còn thảng thốt bất chợt về vị phố: “Chốn cũ quay về/ chén rượu ấm nồng hăng hăng vị phố/ cây bàng cây me tuổi già khắc khổ/ dõi trời ký ức/ những ô cửa/ chớp mắt lô xô/ Tôi ngồi đầu ô/ vợi đêm mờ sáng/ sương khuya làn khói mơ hồ/ chợt thoáng bay qua mắt ướt/ ngỡ ai vừa nhận ra mình” (Phố đợi).
Nhật Minh đi trong phố mà nhớ phố, bởi phố của anh phần nhiều là buồn phố, cô đơn phố. Người tha thiết thường day dứt, xót đau: “Thị thành tự kỷ/ Mang nhau đi/ Xa những an lành/ Hơi người ươn tanh mùi cá/ Chợ chiều bán những mong manh/ Hắc ám bóng đêm/ Dòng mê ngụp lặn/ Cuồng tín bơ phờ/ Khói nhang viển vông/ Bay vô đạo mái chùa cổ kính” (Thị thành).
Nhật Minh là người yêu kỷ niệm, yêu những gì thuộc về “bóng cũ người xưa”. Thế nên, trong thơ anh, mẹ cha là một chủ đề, đúng hơn, một biểu trưng. Nhưng khi viết về mẹ, cha, Minh không chỉ nói cho riêng mình. Tình yêu với mẹ của anh, theo đây, cũng là những suy tư về mẹ, tình cảm với cha, cũng là sự nghĩ về cha: “Mẹ không thuộc về tiếng vỗ tay/ Đám đông ồn ào huyên náo/ Mẹ yêu đóa hoa sen thơm thảo/ Khép sau lưng những trận gió gầm gào” (Thơ gửi mẹ); “Khi tóc Cha tung lên cùng mái sóng/ Con hiểu sự già nua chưa đến nơi này/ Biển xanh biếc/ Cuộc đời rộng lớn/ Từng đợt sóng vui - buồn/ Chớp mắt bể dâu” (Biển của con).
Không ai đồng nhất giản đơn con người thực tại với hình tượng tác giả trong thơ. Tuy nhiên, có một điểm dễ thống nhất trong thơ Trần Nhật Minh là, cũng như tác giả thực tại, thơ anh luôn có hình bóng một nam nhân ưa hồ hải, phiêu bạt kiểu giang hồ nghệ sĩ: “Đôi khi thèm lên núi/ Hát vài bài ca chơi/ Như mây bay gió thổi/ Như sông ngàn năm trôi” (Thèm lên núi). Không khó để nhận ra bóng dáng của dòng sông, khe núi, dấu chân kẻ lang thang bên chiều lửa đỏ. Đâu cũng lưu đầy xúc cảm, đâu cũng dằng dặc nhớ thương. Đó là Sài Gòn: “Con sông gày nhánh cỏ/ Trôi tận cùng nhớ mong” (Chiều bên sông Sài Gòn); “Sài Gòn buộc tôi vào ngọn gió/ Thổi tôi bay ngang dọc những con đường/Những con đường giấu kín vết thương” (Sài Gòn); là miền tây thương nhớ, là điệu lý phương nam xa xôi, vùng sông nước mà anh gắn bó một thời: “Khi tôi đến miền Tây thức dậy lâu rồi/ Từng giọt phù sa đồng bằng nhấp nháy/ Nắng mới nhìn tôi những thế kỷ xa xôi/ Chợt gần gũi thuở hồng hoang mở cõi/ Tôi thênh thang chạm tới chân trời (Miền Tây); là Tây Bắc hoang dại trong ký ức Minh: “Tây Bắc/ Núi sắc lưỡi dao/ Mắt quắc/ đàn ông/ chọn đỉnh trời để thở/ đàn bà/ chọn góc rừng để nhớ” (Tây Bắc).
Nói thơ Nhật Minh vừa ấm áp, vừa mỏng manh, là như thế. Nhật Minh trầm mặc mà phiêu lãng. Bên một Nhật Minh khê nồng còn có một Nhật Minh với những cơn mơ. Tôi rất thích những câu thơ phảng phất ảo ảnh hoang vắng của anh: “Đêm vẫn còn hiu hắt/ Nỗi đèn khuya mong chờ/ Mẹ ngồi hơ bóng lạnh/ Bên bếp mùa đông mưa/ Con cuộn tròn giấc ngủ/ Bụi đường xa gót giày/ Mơ được làm đứa trẻ/ Nói cười như thơ ngây” (Sông xa).
Thơ Trần Nhật Minh đây đó luôn ẩn khuất nỗi xót xa sau những ồn ào nộ khí: “Có những ngày tiếp nối những ngày/ bài thơ viết giữa muôn trùng trận bão/ nước mắt chưa ngừng rơi/ ta thương ta thương bạn/ từng chấm nhỏ nhoi trôi lặng dưới trời...” (Có những ngày). Bởi nặng tình đời nên thơ anh cũng là nỗi ngậm ngùi về sự nhạt phai tình đời ấy: “Mắt cá buồn/ Mắt em ướt lạnh/ Vạt tóc tanh tanh/ Chợ chiều tàn cá ươn khách vắng/ Biển vây quanh sạp cá tròng trành” (Ghi ở chợ cá biển). Trong cuộc nặng kiếp người, không ít lần Minh ngồi xuống thở than. Sự nhàm tẻ thường nhật, cái phi lý của cuộc đời, cảm giác vô vọng của kẻ “đợi đến lượt mình”: “Tôi xếp hàng/ Chờ đến lượt mình/ Để được hót những lời vay mượn/ Rồi chờ mãi/ gục xuống/ Những dấu chân chồng lên nhau/ Không khoan nhượng” (Hót). Không phải ngẫu nhiên, không ít lần, cơn gió hoang trong anh bật tung khao khát “buông” và “mở”, khao khát vượt thoát khỏi những uẩn ức, bay về chân trời tự do: “Bỏ lại những ngày vừa cũ/ Chạm vào ngày mới tinh khôi/ Trên chuyến xe cuối mùa vừa đủ/ Cho tôi và một khung trời” (Ngày mới); “Mở trong anh/ chân trời lạ/ nơi có đường bay/ của những cánh thật thà” (Mở).
Thơ Trần Nhật Minh ẩn chứa một mật mã riêng trong tâm hồn nghệ sĩ phong phú của anh. Ở đây, sự tinh tế, đa chiều và thành thực của cảm xúc, chất suy tư ở chiều sâu, sự khoáng đạt của ngôn từ làm thành một Nhật Minh - thơ hấp dẫn, lấp lánh nét tài hoa. Dẫu xem đây chỉ là một cuộc chơi, tôi vẫn mong anh đi tiếp trên con đường ấy...