Quang cảnh phiên họp của Quốc hội chiều 8/12. (Ảnh: DUY LINH)
Quang cảnh phiên họp của Quốc hội chiều 8/12. (Ảnh: DUY LINH)

Tháo điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực cho năng lượng quốc gia

Đại biểu Quốc hội đề nghị hoàn thiện khung pháp lý, ưu tiên lĩnh vực cấp bách và bảo đảm an toàn thủy điện để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng cao, bảo đảm an ninh năng lượng và phát triển bền vững.

Đột phá cơ chế cho phát triển điện gió ngoài khơi và hạ tầng truyền tải

Chiều 8/12, thảo luận tại hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030, nhiều đại biểu Quốc hội nhấn mạnh sự cần thiết phải có các cơ chế mới mang tính đột phá, tháo gỡ vướng mắc kéo dài trong lĩnh vực năng lượng, nhất là điện gió ngoài khơi, truyền tải điện và bảo đảm an toàn thủy điện.

Các ý kiến tập trung đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng cao, thực hiện cam kết NetZero và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Đại biểu Nguyễn Hải Nam (Huế) cho rằng để phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế hơn 10% từ năm 2026, nhu cầu phát triển năng lượng, đặc biệt điện là rất lớn. Trong đó, điện gió ngoài khơi là trụ cột quan trọng, song còn gặp nhiều vướng mắc pháp lý cần tháo gỡ.

ndo_br_img-1765180862823-1765181778996.jpg
Đại biểu Nguyễn Hải Nam (Huế) phát biểu. (Ảnh: DUY LINH)

Ông nêu 5 lý do then chốt cho thấy Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng và phát triển điện gió ngoài khơi: Tiềm năng gió ngoài khơi lớn; bảo đảm an ninh năng lượng; thực hiện cam kết NetZero; thúc đẩy kinh tế biển xanh và an ninh-quốc phòng; hình thành ngành công nghiệp mới, phát triển chuỗi cung ứng trong nước và xuất khẩu.

Tuy nhiên, theo đại biểu, lĩnh vực này đang đối mặt 5 nhóm khó khăn, vướng mắc pháp lý lớn, bao gồm: Thứ nhất, quy hoạch chưa đồng bộ. Quy hoạch không gian chưa được phê duyệt, khiến các dự án điện gió ngoài khơi chưa có cơ sở pháp lý vững chắc để triển khai, mặc dù đã có mục tiêu trong quy hoạch ngành điện.

Thứ hai, cơ chế giá chưa phù hợp. Thiếu chính sách, cơ chế giá điện cho các dự án điện gió ngoài khơi rõ ràng, hấp dẫn và dài hạn để thu hút các nhà đầu tư quốc tế và trong nước.

Thứ ba, về quy định giao khu vực biển: Chưa có hướng dẫn rõ ràng về trình tự, thủ tục cho thuê, giao khu vực biển để khảo sát, nghiên cứu, xây dựng và vận hành dự án năng lượng tái tạo trên biển.

Thứ tư, về trình tự, tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư: Thiếu các quy định cụ thể về trình tự, tiêu chí để lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn, vốn đầu tư cao. Trong đó, chi phí khảo sát là rất cao.

Thứ năm, phân quyền thẩm định/chấp thuận đầu tư: Còn khó khăn về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư dự án điện gió ngoài khơi.

Trước những khó khăn, vướng mắc trên, đại biểu Nguyễn Hải Nam đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển để tạo đột phá cho ngành điện gió ngoài khơi.

Theo đó, đại biểu đề nghị hoàn thiện khung pháp lý, khẩn trương phê duyệt quy hoạch đồng bộ; ban hành quy định rõ ràng về giao/cho thuê mặt biển; xây dựng cơ chế giá điện phù hợp và hợp đồng PPA có điều khoản bảo đảm rủi ro; thiết lập quy trình lựa chọn nhà đầu tư minh bạch; phát triển chuỗi cung ứng và nguồn nhân lực, đồng thời có cơ chế tín dụng xanh để hỗ trợ nội địa hóa thiết bị.

ndo_br_img-1765180862630-1765181777388.jpg
Đại biểu Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) phát biểu. (Ảnh: DUY LINH)

Đại biểu Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) nhấn mạnh dự thảo nghị quyết “rất cấp thiết” vì 3 lý do: Hệ thống điện đang là nút thắt đối với nông nghiệp công nghệ cao, logistics và nghiên cứu; áp lực từ các cam kết NetZero và cơ chế CBAM của EU; nhiều dự án truyền tải, năng lượng tái tạo, LNG và điện gió ngoài khơi đang “chờ cơ chế”.

Để hoàn thiện dự thảo, bà Lan đề nghị 4 nhóm nội dung: Thứ nhất, bổ sung khái niệm năng lượng sinh khối vào Điều 3, coi đây là lợi thế của Việt Nam và phù hợp kinh tế tuần hoàn.

Thứ hai, tại Điều 6 và Điều 7, cần ưu tiên điều chỉnh cục bộ quy hoạch truyền tải cho các vùng nông nghiệp trọng điểm như Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Hồng - nơi nhu cầu điện lớn cho bảo quản, chế biến và logistics.

Thứ ba, tại Điều 22 về dự trữ xăng dầu, cần bổ sung định hướng tăng tỷ lệ nhiên liệu sinh học như E5, E10, SAF; đồng thời huy động các trường đại học, viện nghiên cứu tham gia nghiên cứu, thử nghiệm.

Thứ tư, về phát triển điện hạt nhân mô-đun nhỏ (Điều 12), đại biểu cho rằng đây là lựa chọn phù hợp cho giai đoạn đầu, chủ yếu để nghiên cứu, đào tạo, làm chủ công nghệ. Giai đoạn đầu cần có vai trò dẫn dắt của Nhà nước do suất đầu tư lớn, thời gian thu hồi dài và rủi ro cao. Sau khi tích lũy đủ năng lực, Việt Nam có thể mở rộng quy mô, thu hút tư nhân; lộ trình từ mô-đun nhỏ sang mô-đun lớn là phù hợp thông lệ quốc tế.

Bảo đảm an toàn tuyệt đối thủy điện: “Không an toàn dứt khoát không nên làm”

ndo_br_img-1765178498063-1765181744594.jpg
Đại biểu Nguyễn Anh Trí (Hà Nội) phát biểu. (Ảnh: DUY LINH)

Đại biểu Nguyễn Anh Trí (Hà Nội) tập trung góp ý về thủy điện - lĩnh vực mà ông cho rằng “rất quan trọng nhưng lại không được đề cập” trong dự thảo Nghị quyết, dù tình trạng xả lũ gây thiệt hại đã từng xảy ra tại nhiều địa phương.

Ông nêu rõ hồ thủy điện phải bảo đảm các chức năng như tích nước làm điện, phục vụ thủy lợi, thủy sản, du lịch, điều hòa môi trường; nhưng quan trọng nhất là không gây hại cho dân, không ảnh hưởng tính mạng con người.

Theo đại biểu, để bảo đảm an toàn hồ thủy điện cần: Dung tích đủ lớn dựa trên lượng mưa an toàn từ 200 năm trở lên; trong mùa mưa chỉ tích tối đa 50% dung tích; vận hành hợp lý cửa xả đáy; dự báo thời tiết chính xác; tuyệt đối không xả lũ khi hạ lưu nước lớn.

Ông cho biết có gần 20 thủy điện nhỏ từng xả lũ gây thiệt hại hạ du, nêu rõ 3 nhóm nguyên nhân chính: Vị trí đặt nhà máy ở địa hình dốc; hồ chứa nhỏ, thiếu dung tích dự trữ; quy trình vận hành và thông báo xả lũ chưa kịp thời.

Mặc dù vấn đề này được nhắc tới trong Tờ trình 921 báo cáo Chính phủ, song dự thảo Nghị quyết vẫn chưa đề cập. Đại biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét 3 nhóm kiến nghị: Rà soát toàn bộ thủy điện nhỏ và vừa đang hoạt động, khắc phục các nguyên nhân gây xả lũ; nếu không khắc phục được thì đóng cửa. Nếu gây thiệt hại phải bồi thường, gây chết người phải xử lý hình sự.

Đồng thời, cần xem lại tất cả dự án thủy điện nhỏ và vừa đã phê duyệt, trong đó không nên làm thủy điện nhỏ tại vùng đồi núi dốc, nhiều suối, hoặc nơi không có quy trình vận hành an toàn.

Bên cạnh đó, dành ưu tiên đầu tư thủy điện lớn, bảo đảm an toàn cao, đồng thời phát triển điện gió, điện mặt trời thay thế thủy điện nhỏ phù hợp với lợi thế công nghệ và điều kiện Việt Nam.

Đại biểu đề nghị đưa các nội dung trên vào Nghị quyết, thể hiện rõ quan điểm: “Đã làm thủy điện là phải an toàn, không an toàn dứt khoát không nên làm”.

ndo_br_img-1765181775039-1765181794361.jpg
Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu giải trình, làm rõ thêm các ý kiến đại biểu Quốc hội nêu tại phiên họp. (Ảnh: DUY LINH)

Giải trình thêm về ý kiến đại biểu Trí nêu tại phiên họp, Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, các quy định pháp luật hiện hành liên quan thủy điện nhỏ vẫn tương đối phù hợp.

Ông cho hay, thủy điện nhỏ là dự án dài hạn, không quá cấp bách, do đó cơ quan soạn thảo trân trọng tiếp thu ý kiến của đại biểu và sẽ xem xét trong quá trình rà soát, sửa đổi Luật Điện lực dự kiến triển khai trong năm 2026.

Về điện gió ngoài khơi, Bộ trưởng nêu rõ, chính sách pháp luật hiện nay đã tương đối đầy đủ; khung giá đã ban hành từ tháng 6/2020, quy định cụ thể theo từng vùng. Việt Nam có tiềm năng rất lớn với hơn 3.000km bờ biển nhưng đây là loại hình năng lượng hoàn toàn mới, lại gắn với yếu tố an ninh quốc gia trên biển.

Bộ trưởng lưu ý đất nước trải dài và chỉ có một lối ra biển, nếu phát triển đồng loạt điện gió ngoài khơi thì cần tính toán xử lý tình huống phức tạp có thể phát sinh, nhất là trong tương lai các yếu tố bên ngoài tham gia rất lớn.

Quan điểm của Chính phủ là làm từng bước, thận trọng, vừa khai thác tiềm năng, vừa rút kinh nghiệm để bảo đảm an toàn và bền vững, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Xem thêm