Đề án không chỉ mang tính chiến lược mà còn là phong trào hành động quốc gia cho ngành nông nghiệp. Đồng thời, là lời cam kết của Việt Nam trước thế giới về trách nhiệm với biến đổi khí hậu, hướng tới phát triển nông nghiệp xanh, bền vững.
Bước ngoặt của ngành trồng trọt
Tại Hội nghị công bố Đề án vừa qua, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Huỳnh Tấn Đạt cho biết, mục tiêu đến năm 2035, ngành trồng trọt cắt giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm 2020. Cùng với đó, xây dựng và phát triển nhãn hiệu “Phát thải thấp” cho các sản phẩm của ngành hàng trồng trọt.
Đến năm 2050, toàn ngành phấn đấu 100% diện tích cây trồng chủ lực áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác bền vững. Việt Nam sẽ trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về phát triển nông sản có trách nhiệm với khí hậu, tạo dựng lợi thế cạnh tranh xanh trên thị trường quốc tế và đóng góp tích cực vào mục tiêu phát thải ròng bằng “0” theo cam kết tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26)…
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và các thị trường siết chặt yêu cầu môi trường, chuyển đổi nông nghiệp giảm phát thải là xu thế tất yếu. Việc đưa ngành trồng trọt từ mô hình truyền thống sang hiện đại, bền vững và trách nhiệm sẽ tạo ra giá trị kinh tế cao hơn. Đây chính là cơ sở để xây dựng “lợi thế cạnh tranh xanh”, giúp nông sản Việt Nam thâm nhập vào các thị trường có giá trị cao như Liên minh c hâu Âu (EU), Nhật Bản, Bắc Mỹ.
Ngoài lợi ích kinh tế trực tiếp là giá bán các sản phẩm này có thể cao hơn từ 10 đến 25% so với canh tác truyền thống, nếu các giải pháp của Đề án được thực thi hiệu quả, ước tính lượng phát thải có thể giảm từ 8 đến 11 triệu tấn CO2 tương đương mỗi năm. Điều này sẽ hỗ trợ mạnh mẽ mục tiêu giảm phát thải quốc gia và tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong giai đoạn từ năm 2025- 2035, ngành trồng trọt sẽ tập trung vào một số cây trồng chủ lực, có tiềm năng giảm phát thải.
Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Nguyễn Thị Thu Hương cho biết, ngành trồng trọt đề xuất triển khai 59 mô hình cụ thể tại 34 tỉnh, thành phố. Các mô hình này rất đa dạng, bao gồm: canh tác lúa phát thải thấp, các hệ thống luân canh như lúa-cá/tôm, lúangô/lạc; các mô hình chuyên canh ngô, sắn, rau màu. Cùng với đó, còn có các mô hình cho cây lâu năm (như chè, cà-phê, hồ tiêu, điều, cây ăn quả có múi, sầu riêng, nhãn, vải...). Ngoài ra, còn có các mô hình nông lâm kết hợp, nông nghiệp tuần hoàn; mô hình tái sử dụng chất thải, sản xuất than sinh học và chuyển đổi đất trồng hai vụ lúa sang cây trồng cạn. Dự kiến, mỗi tỉnh sẽ xây dựng từ 1 đến 3 mô hình phù hợp với đặc thù địa phương, có tiềm năng giảm phát thải cao.
Bảo đảm hạ tầng nông nghiệp
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp Lê Chí Thiện, thời gian qua, tỉnh Đồng Tháp tiên phong triển khai 21 mô hình sản xuất lúa chất lượng cao giảm phát thải, giúp giảm từ 20 đến 30% lượng nước tưới, tiết kiệm 15% chi phí và cắt giảm đáng kể lượng khí mê-tan phát thải ra môi trường.
Việc sản xuất giảm phát thải tại địa phương còn gặp không ít khó khăn, thách thức như: thiếu nguồn lực đầu tư, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, chính sách tín dụng xanh hay hướng dẫn kỹ thuật cụ thể cho từng nhóm cây trồng.
Muốn giảm phát thải, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ. Nếu không thể rút nước kịp thời và chủ động, mọi kỹ thuật canh tác tiên tiến không thể thực thi. Do đó, đầu tư cho thủy lợi chính là “điều kiện cứng” để mở đường cho quá trình chuyển đổi.
Ông Cao Đức Phát,
Nguyên Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường)
Lĩnh vực trồng trọt chiếm khoảng 80% tổng phát thải của ngành nông nghiệp, trong đó chủ yếu là do tập quán canh tác lúa nước liên tục bị ngập nước, gây ra khí mê-tan. Để thực hiện hiệu quả các mô hình giảm phát thải, cần có hệ thống thủy lợi đủ năng lực để chủ động rút nước và điều tiết dòng chảy.
Theo nguyên Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Cao Đức Phát, muốn giảm phát thải, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ. Nếu không thể rút nước kịp thời và chủ động, mọi kỹ thuật canh tác tiên tiến không thể thực thi. Do đó, đầu tư cho thủy lợi chính là “điều kiện cứng” để mở đường cho quá trình chuyển đổi. Để giúp các địa phương có thể nhanh chóng triển khai thực tế trên đồng ruộng, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cần khẩn trương xây dựng và ban hành gói kỹ thuật, tài liệu tập huấn về canh tác giảm phát thải.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tây Ninh Đinh Thị Phương Khanh chia sẻ: "Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần nhanh chóng xây dựng một bộ tiêu chí về chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Để việc triển khai Đề án đạt hiệu quả, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang hoàn thiện thể chế, chính sách và công cụ hỗ trợ. Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản liên quan, trong đó lồng ghép yêu cầu giảm phát thải khí nhà kính trong các chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án ngành trồng trọt. Đồng thời, xây dựng, ban hành bộ tiêu chí về canh tác trồng trọt giảm phát thải cũng như xây dựng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ. Bộ sẽ tăng cường kiểm tra, giám sát thực địa nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho địa phương. Ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo kỹ thuật, biểu mẫu, quy trình giám sát đánh giá định kỳ kết quả thực hiện giảm phát thải. Xây dựng và vận hành hệ thống giám sát-đánh giá thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bao gồm bộ chỉ số đo lường giảm phát thải và kết quả chuyển đổi mô hình sản xuất…".
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung, quá trình xây dựng hệ thống đo đạc-giám sát rất khó khăn, phức tạp, Bộ giao các viện nghiên cứu trực thuộc chủ trì thực hiện. Sau khi có quy trình giám sát-đo đạc, ngành nông nghiệp sẽ triển khai mô hình trao đổi tín chỉ và kết nối tham gia thị trường các-bon. Bộ chỉ đạo Cục Biến đổi khí hậu trước năm 2028 phải thí điểm trao đổi tín chỉ các-bon nội địa, trên cơ sở đó tham gia trao đổi tín chỉ các-bon quốc tế.