Với diện tích hơn 24 nghìn héc-ta, sản lượng cà-phê nhân ước đạt gần 38 nghìn tấn, cây cà-phê đã khẳng định vị thế là cây trồng chủ lực của tỉnh Sơn La.
Với diện tích hơn 24 nghìn héc-ta, sản lượng cà-phê nhân ước đạt gần 38 nghìn tấn, cây cà-phê đã khẳng định vị thế là cây trồng chủ lực của tỉnh Sơn La.

Sơn La tập trung phát triển bền vững cây cà-phê

Sau hơn 30 năm bén rễ trên vùng đất Tây Bắc, cây cà-phê không chỉ khẳng định vị thế cây trồng chủ lực của tỉnh Sơn La, mà còn mở ra hướng phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa gắn với công nghệ cao, chuỗi giá trị và hội nhập quốc tế.

Giai đoạn 2021-2025, ngành cà-phê Sơn La đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tạo tiền đề vững chắc cho chiến lược phát triển bền vững đến năm 2035.

Hiện tỉnh Sơn La có khoảng 24.300 ha càphê, tăng 36% so với năm 2021, đạt 121% kế hoạch đề ra. Sản lượng cà-phê nhân ước đạt 37.724 tấn, tăng 41,1% so với năm 2021, vượt 12,27% so với mục tiêu.

Thời gian qua, giá cà-phê ổn định, đầu ra thuận lợi nhờ hệ thống thu mua, chế biến ngày càng hoàn thiện, giúp người dân mạnh dạn mở rộng diện tích trồng cây cà-phê. Thực tế cho thấy, bình quân mỗi ha cà-phê cho thu hoạch 11 tấn quả tươi với giá dao động từ 15.000-20.000 đồng/kg, mang lại doanh thu từ 170-200 triệu đồng/ha, lợi nhuận hơn 140 triệu đồng/ha sau khi trừ chi phí. Đây là mức thu nhập hấp dẫn, góp phần nâng cao đời sống cho hàng chục nghìn hộ trồng cà-phê.

Cây cà-phê Sơn La, đặc biệt giống Arabica được trồng chủ yếu trên các vùng đất bazan, đá vôi, phù sa cổ ở độ cao từ 600- 1.200 mét, khí hậu mát mẻ với nền nhiệt lý tưởng từ 15 độ C đến 24 độ C. Các điều kiện thổ nhưỡng và sinh thái đặc trưng này đã góp phần tạo nên hương vị cân bằng, thơm nhẹ, chua thanh tao và ngọt hậu, là nét đặc trưng riêng biệt của cà-phê Sơn La.

Tuy nhiên, phần lớn diện tích cây cà-phê vẫn phụ thuộc vào nước trời, chỉ một số ít diện tích có hệ thống tưới tiết kiệm như nhỏ giọt, phun mưa. Tình trạng khô hạn vào mùa hoa kết trái hoặc mưa lớn gây xói mòn, rửa trôi đất tiếp tục là những thách thức lớn, trong đó có cả việc cây cà-phê bị chết, cháy lá do sương muối.

Hiện nay, giống cà-phê Catimor vẫn chiếm hơn 90% diện tích, có ưu điểm về khả năng thích nghi, kháng bệnh gỉ sắt, nhưng cho nhân nhỏ, năng suất không cao. Một phần diện tích trồng từ năm 2000 đã già cỗi, hiệu quả năng suất thấp. Để cải thiện, tỉnh Sơn La đã đưa vào thử nghiệm nhiều giống mới như THA1, TN7, TN9, H1, Starmaya và TN2, đồng thời, thực hiện tái canh, ghép cải tạo với tổng diện tích 2.818 ha, tuy nhiên chỉ đạt 36,1% kế hoạch đề ra.

Nguyên nhân chính là do tâm lý e ngại của người nông dân trước chi phí đầu tư cao và thời gian kiến thiết dài, trong khi giá cà-phê hiện tại vẫn tốt. Tỉnh Sơn La đã hình thành được ba vườn cây đầu dòng và 5.000 cây đầu dòng để sản xuất giống, cung cấp gần 9.000 kg hạt giống/năm và 10.500 hom cành, phục vụ trồng mới, tái canh và ghép cải tạo các diện tích cà-phê ở các xã trọng điểm về cà-phê.

Theo thống kê, Sơn La hiện có 28 doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia sản xuất, chế biến càphê. Trong đó, có 26 cơ sở sơ chế, chế biến sâu. Các mô hình liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp-hợp tác xã-người dân ngày càng phát huy hiệu quả, hình thành vùng nguyên liệu tập trung, bảo đảm chất lượng và đầu ra ổn định cho sản phẩm từ cà-phê.

Hiện tỉnh Sơn La có năm cơ sở chế biến công nghiệp và hơn 15 cơ sở sơ chế đã đáp ứng hơn 50% sản lượng quả tươi, phần còn lại vẫn sơ chế thủ công, ảnh hưởng đến chất lượng cà-phê nhân. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải, tận dụng phụ phẩm để sản xuất phân bón hữu cơ, góp phần bảo vệ môi trường.

Riêng trong sáu tháng đầu năm 2025, tỉnh Sơn La đã xuất khẩu 17.800 tấn cà-phê nhân, đạt giá trị gần 70 triệu USD, chiếm hơn 68% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của toàn tỉnh. Dự kiến trong năm 2025 sẽ đạt 34.000 tấn, tương đương 100 triệu USD, chủ yếu sang Liên minh châu Âu (EU), Bắc Mỹ, Trung Đông và ASEAN.

Ông Nguyễn Thành Công, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, cho biết: Tỉnh đã cấp chứng nhận bền vững (RA, 4C) cho 23.448 ha cà-phê, vượt 156% mục tiêu. Ngoài ra còn có 141 ha đạt VietGAP, 543 ha theo hướng hữu cơ, 38,6 ha có mã số vùng trồng. Cà-phê đặc sản đạt 1.120 ha với 1.000 tấn sản lượng. Từ năm 2017, sản phẩm cà-phê Sơn La đã được cấp chỉ dẫn địa lý.

Hiện có bảy tổ chức được cấp quyền sử dụng, gồm các doanh nghiệp và hợp tác xã như: Minh Tiến, Bích Thao, Phúc Sinh, Aratay... Cà-phê Sơn La còn có năm sản phẩm đạt chứng nhận OCOP, trong đó một sản phẩm 5 sao và bốn sản phẩm 4 sao, góp phần nâng cao thương hiệu và giá trị gia tăng.

Trong thời gian qua, tỉnh Sơn La cũng đã phối hợp với Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức triển khai ứng dụng “Cà-phê Tây Bắc” giúp cung cấp dữ liệu canh tác, dự báo sâu bệnh, thời tiết... hỗ trợ người dân ứng phó biến đổi khí hậu.

Dự án cũng đã hỗ trợ tái canh thử nghiệm 35,7 ha giống mới, cấp 9.500 cây mắc-ca trồng xen, tổ chức hơn 50 lớp tập huấn cho hơn 1.400 nông dân. Cùng với đó, các tổ chức quốc tế như Care, SRD... cũng hỗ trợ phát triển sinh kế, thúc đẩy vai trò của phụ nữ trong sản xuất cà-phê tại các xã ở Sơn La. Trong giai đoạn 2026-2030, tỉnh Sơn La định hướng mở rộng diện tích cây cà-phê lên 25.000 ha, phấn đấu sản lượng 40.000 tấn.

Đến năm 2035 đạt 27.000 ha và sản lượng 47.000 tấn. Diện tích cà-phê đặc sản và vùng đạt chứng nhận bền vững sẽ tăng mạnh, hình thành năm vùng công nghệ cao tại các huyện trọng điểm. Sơn La cũng ưu tiên phát triển chế biến sâu, hình thành các cụm công nghiệp cà-phê, nâng tỷ lệ chế biến công nghiệp lên 80%, tỷ lệ cà-phê chế biến sâu lên 25% và 85% sản lượng dành cho xuất khẩu.

Cùng với đó, các giải pháp đồng bộ về khoa học-kỹ thuật, canh tác bền vững, hỗ trợ liên kết, phát triển thị trường, tín dụng và thương hiệu sẽ tiếp tục được triển khai quyết liệt.

Xem thêm