Chiều 20/8, trong khuôn khổ Tuần lễ ngành nước Việt Nam 2025, đã diễn ra Hội thảo Ngành nước Việt Nam trong kỷ nguyên mới: Thách thức và cơ hội.
92,5% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh
Ông Nguyễn Minh Đức, Trưởng phòng Quản lý cấp thoát nước, Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng (Bộ Xây dựng) cho biết, đến năm 2025, khu vực đô thị tại Việt Nam có khoảng 250 doanh nghiệp cấp nước đô thị với 1.000 nhà máy nước sạch đô thị và nông thôn phụ cận. Tổng công suất các nhà máy nước đạt 13,2 triệu m3/ngày đêm. Tỷ lệ dân cư đô thị được cung cấp nước sạch đạt 94%. Tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch 15,5%. Các đơn vị cấp nước đã lập và thực hiện kế hoạch cấp nước an toàn đạt khoảng 48%.
Khu vực nông thôn có khoảng 18.000 công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung và 10 triệu công trình cấp nước quy mô hộ gia đình. Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 92,5%, trong đó gần 54% sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn QCVN 02:2009/BYT của Bộ Y tế. Khoảng 44% dân số nông thôn được cấp nước từ công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung, 56% dân số nông thôn sử dụng nước cho sinh hoạt từ công trình cấp nước quy mô hộ gia đình.
Đối với thoát nước và xử lý nước thải, tỷ lệ thu gom nước thải của phạm vi phục vụ hệ thống thoát nước đô thị toàn quốc đạt khoảng 64%. Có khoảng 70% hộ gia đình đã đấu nối vào hệ thống thoát nước đô thị.
Đến tháng 12/2024, toàn quốc có 83 nhà máy xử lý nước thải đô thị đang vận hành ở hơn 50 đô thị. Tổng công suất thiết kế các nhà máy xử lý nước thải khoảng 2,064 triệum3/ngày, công suất thực tế khoảng 1,063 triệu m3/ngày.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Minh Đức, ngành cấp, thoát nước còn khá nhiều tồn tại. Pháp luật liên quan trực tiếp đến lĩnh vực cấp, thoát nước chưa tương xứng với vai trò, tầm quan trọng của dịch vụ cấp, thoát nước là dịch vụ thiết yếu.
Quy hoạch cấp, thoát nước chưa đầy đủ, chưa đồng bộ; chất lượng dự báo còn hạn chế gây khó khăn cho việc định hướng, đầu tư phát triển hệ thống cấp, thoát nước.
Thêm nữa, hoạt động đầu tư phát triển cấp, thoát nước chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường, đặc biệt là cấp nước, thu gom, xử lý nước thải vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo.
Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải chưa đầy đủ, khó khăn trong việc đánh giá tình hình, lập quy hoạch, định hướng, đầu tư và quản lý nhà nước.
Ngoài ra, công trình cấp, thoát nước thiếu bền vững, hiệu quả, chất lượng dịch vụ, công tác quản lý vận hành còn nhiều hạn chế. Việc ban hành giá nước sạch gặp nhiều khó khăn; giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải còn thấp, hạn chế huy động nguồn lực đầu tư.
Đặc biệt, theo ông Nguyễn Minh Đức, quản lý nhà nước về cấp, thoát nước còn chồng chéo, chưa thống nhất.
Luật cấp, thoát nước là yêu cầu thực tiễn đối với ngành nước
Vào tháng 1. Bộ Xây dựng đã hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Cấp, thoát nước. Tuy nhiên, sau khi thực hiện sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, dự thảo luật cần phải được chỉnh lý, hoàn thiện. Theo đề xuất của Bộ Xây dựng, Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thống nhất chưa đưa dự án Luật Cấp, thoát nước vào Chương trình kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa XV.
Bộ Xây dựng tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật Cấp, thoát nước báo cáo Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2026-2027 nhiệm kỳ Quốc hội XVI.

Tại Hội thảo, ông Nguyễn Minh Đức cho biết định hướng phát triển ngành nước trong dự thảo Luật Cấp, thoát nước và pháp luật khác. Theo đó, quy định nước sạch là sản phẩm, hàng hóa đặc biệt, bảo đảm mọi người dân được quyền tiếp cận, sử dụng nước sạch. Quy hoạch cấp, thoát nước phải gắn với quy hoạch tổng hợp lưu vực sông và kết nối với tưới, tiêu nước thủy lợi.
Quy định quy hoạch tổng thể quốc gia về cấp, thoát nước; quy hoạch chuyên ngành cấp, thoát nước cấp tỉnh cần được bổ sung trong danh mục quy hoạch ngành của Luật quy hoạch.
Luật cấp, thoát nước cần quy định chính sách thúc đẩy phát triển công trình cấp nước quy mô lớn, tính liên kết vùng, kết nối, hỗ trợ cấp nước nông thôn; tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa dịch vụ cung cấp nước sạch sau khi hoàn thiện khung pháp luật; quy định quản lý chất lượng dịch vụ cấp nước; quản lý bảo đảm an ninh, an toàn cấp nước, quản lý thoát nước an toàn…
Dịch vụ cấp nước sạch, thoát nước và xử lý nước thải là dịch vụ thiết yếu, có tính đặc thù thuộc danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá và cần có phương pháp định giá riêng hoặc hướng dẫn tính đặc thù về định giá.
Ngoài ra, Bộ Xây dựng cũng đề xuất giao một bộ thực hiện quản lý Nhà nước về cấp, thoát nước trên toàn quốc; quản lý cấp nước không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Đề xuất nhiều giải pháp phát triển ngành nước
Tại Hội thảo, từ góc nhìn của mình, các diễn giả góp ý nhiều giải pháp phát triển ngành nước. Ông Trịnh Xuân Thịnh, Phó tổng Giám đốc Công ty CP Nước và Môi trường Việt Nam (VIWASE) đánh giá, quy hoạch cấp, thoát nước có vai trò then chốt trong sự phát triển ngành nước. Đó là cơ sở để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng về cấp, thoát nước; góp phần phát triển hạ tầng bền vững, thu hút đầu tư và ứng phó biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, quy hoạch cấp, thoát nước trong quy hoạch tỉnh vẫn còn nhiều bất cập như thiếu chuyên môn sâu và tính khả thi; cơ sở dữ liệu yếu; thiếu ứng dụng khoa học công nghệ và các mô hình tiên tiến trong lập quy hoạch; quy hoạch cấp, thoát nước thiếu đồng bộ với các quy hoạch ngành khác; thiếu liên kết vùng, chưa có chiến lược ngành nước quốc gia.
Ông Trịnh Xuân Thịnh đề xuất ba giải pháp trọng tâm. Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, sớm ban hành Luật Cấp, thoát nước, trong đó cho phép lập quy hoạch cấp, thoát nước cấp tỉnh riêng.
Thứ hai là tăng cường ứng dụng công nghệ và dữ liệu số, trong đó tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia ngành Nước, sử dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS), trí tuệ nhân tạo (AI), viễn thám trong lập và quản lý quy hoạch…
Thứ ba là tăng cường nguồn lực và năng lực thực thi, bao gồm: Bố trí ngân sách cho lập, quản lý cập nhật dữ liệu; bắt buộc ứng dụng công nghệ mô hình hóa; có định mức chi phí riêng cho các mô hình chuyên ngành áp dụng vào quy hoạch; xây dựng quy hoạch ngành nước quốc gia định hướng toàn diện.
Ông Dương Quý Dương, Tổng giám đốc Công ty CP Cấp nước Huế (HueWACO) đánh giá, chuyển đổi số là yêu cầu tất yếu của mỗi doanh nghiệp nhằm thích nghi và phát triển, tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý và nâng cao chất lượng dịch vụ, trải nghiệm của khách hàng.
Tuy nhiên, chuyển đổi số ngành nước tại Việt Nam đang phải đối mặt với một số khó khăn như dữ liệu phân tán, chưa đồng bộ, đầu tư hạ tầng quản lý cơ sở dữ liệu có chi phí cao.
Ông Dương Quý Dương chia sẻ bí quyết về việc HueWACO đẩy mạnh chuyển đổi số dựa trên 3 trụ cột, bao gồm: Dịch vụ khách hàng số, vận hành tự động - thông minh hệ thống cấp nước và quản trị số. Trong đó, khách hàng số là trung tâm, hai trụ cột vận hành và quản trị sẽ xoay quanh khách hàng số. Vận hành thông minh sẽ hỗ trợ ra quyết định và nâng cao trải nghiệm khách hàng, còn quản trị số là bộ não, liên kết với hai trụ cột còn lại
Để tăng cường hiệu quả, HueWACO đang xây dựng doanh nghiệp số trên nền tảng đô thị thông minh, gắn liền chuyển đổi số doanh nghiệp với chiến lược chuyển đổi số của thành phố Huế.

Trong khi đó, ông Lều Mạnh Huy, Tổng Giám đốc Công ty DNP đề xuất giải pháp cho nước sạch sinh hoạt ở đồng bằng sông Cửu Long.
Đồng bằng sông Cửu Long được xem là “vùng trũng” về nhiều mặt, như: tăng trưởng kinh tế, đời sống sinh kế, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực,... hiện trạng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế sẵn có.
Để cung cấp nước sinh hoạt cho đồng bằng sông Cửu Long, ông Lều Mạnh Huy đưa ra giải pháp khai thác, truyền dẫn nguồn nước thô vùng bắc sông Tiền. Theo đó, công trình khai thác nước đặt tại khu vực thượng nguồn sông Tiền, chia thành nhiều giai đoạn tùy theo diễn biến của xâm nhập mặn. Các tuyến ống truyền tải chính bằng đường ống kín và các trạm bơm tăng áp bám theo hành lang các trục đường cao tốc, vận chuyển nước thô đến các khu vực ven biển.
Theo ông Lều Mạnh Huy, giải pháp này khai thác nguồn nước thô từ thượng nguồn, vận chuyển bằng hệ thống đường ống kín đến các nhà máy xử lý nước sạch phía hạ nguồn. Điểm lấy nước thô phù hợp với tình hình xâm nhập mặn hiện nay và có tính an toàn cao khi kết hợp với hệ thống các hồ trữ nước ngọt tại các địa phương. Khi xảy ra tình huống cực đoan, ranh mặn tiếp tục lấn sâu, dịch chuyển vị trí lấy nước thô.
Tuyến ống truyền tải chính dọc theo hành lang các tuyến đường cao tốc đang hình thành, thuận lợi trong công tác GPMB và thi công lắp đặt, tiết kiệm chi phí đầu tư.
Giải pháp này đã được cập nhật điều chỉnh trong quy hoạch quốc gia, đã được hiện thực hóa thành dự án. Hiện tại, Dự án đã được Bộ Xây dựng thẩm định, đang hoàn thiện các thủ tục pháp lý để dự kiến khởi công xây dựng trong quý 4 năm nay và hoàn thành trong quý 4/2026.