Cần chiến lược toàn diện, dài hạn và hiệu quả trong phát triển nhà ở xã hội. (Ảnh: PV)
Cần chiến lược toàn diện, dài hạn và hiệu quả trong phát triển nhà ở xã hội. (Ảnh: PV)

Phát triển nhà ở xã hội đòi hỏi chiến lược toàn diện, dài hạn và hiệu quả

Hội Môi giới bất động sản Việt Nam cho rằng, việc phát triển nhà ở xã hội hiện nay không thể chỉ trông chờ vào nỗ lực của một vài doanh nghiệp hoặc chỉ là mục tiêu trong các văn bản quy hoạch. Nó đòi hỏi phải có một chiến lược toàn diện, dài hạn và có hiệu quả thi hành cao từ các cấp chính quyền.

Để tháo gỡ những thách thức còn tồn tại, Hội Môi giới bất động sản Việt Nam cho rằng, cần một tư duy mới trong quản lý và điều hành. Theo đó, coi phát triển nhà ở xã hội là nhiệm vụ bắt buộc trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi địa phương, là trách nhiệm dẫn dắt của Nhà nước thay vì phó mặc cho cơ chế thị trường.

Theo đó, chỉ khi nào nhà ở xã hội thật sự trở thành một phần không thể thiếu trong quy hoạch đô thị, có tính hấp dẫn đối với doanh nghiệp, dễ tiếp cận với người dân, và có cơ chế vận hành ổn định, khi đó Đề án hoàn thành ít nhất 1 triệu căn nhà ở xã hội mới đạt kết quả cao, góp phần xây dựng một xã hội phát triển hài hòa, nhân văn và bền vững.

Vướng mắc, tồn tại trong triển khai nhà ở xã hội

Thực tiễn cho thấy, sau hàng loạt chính sách, chỉ đạo, hỗ trợ và cam kết, kết quả triển khai Đề án 1 triệu căn nhà ở xã hội vẫn còn phải đẩy nhanh tiến độ hơn nữa, cụ thể, quá trình triển khai thực hiện chính sách về nhà ở xã hội vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế chưa được khắc phục, giải quyết.

Thứ nhất, quỹ đất phát triển nhà ở xã hội vẫn hạn hẹp. Nhiều địa phương chưa bố trí quỹ đất hợp lý cho phát triển nhà ở xã hội. Một số nơi đã bố trí quỹ đất nhưng thiếu cơ sở hạ tầng, không phù hợp để triển khai dự án. Phần lớn chủ đầu tư phải tự tìm quỹ đất, tự giải phóng mặt bằng, vừa tốn kém vừa khó khả thi, đẩy giá thành lên cao và làm mất tính hấp dẫn của phân khúc này. Thêm nữa là việc thiếu cơ chế thu hút quỹ đất từ khối tư nhân tham gia phát triển nhà ở xã hội tiếp tục là rào cản chưa có lời giải.

Thứ hai, thủ tục đầu tư và lựa chọn chủ đầu tư nhà ở xã hội còn phức tạp. Các thủ tục chấp thuận chủ đầu tư, triển khai dự án nhà ở xã hội không khác biệt nhiều so với dự án nhà ở thương mại, thậm chí còn phức tạp hơn, bị “soi xét” kỹ hơn do phải trải qua các bước thẩm định đặc thù như: phê duyệt giá bán, xét duyệt đối tượng thụ hưởng. Đồng thời cũng chưa có cơ chế ưu tiên, rút gọn thủ tục hoặc chỉ định thầu phù hợp để thu hút doanh nghiệp tham gia. Trong khi lợi nhuận thấp, dẫn đến chủ đầu tư không mặn mà tham gia phát triển.

Thứ ba, nguồn vốn và cơ chế tín dụng cho nhà ở xã hội cũng chưa phù hợp. Việc phát triển nhà ở xã hội chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có của doanh nghiệp và ngân hàng thông qua vay tín dụng. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực giảm lãi suất, nhưng lãi suất của gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho phân khúc đặc thù này vẫn cao, thời hạn ngắn, không phù hợp với cả nhà đầu tư lẫn người mua nhà thu nhập thấp. Ngoài ra, chưa có nguồn vốn trung và dài hạn ổn định từ ngân sách, các quỹ phát triển nhà ở, hay quỹ tín thác để bảo đảm đầu tư bền vững cho phân khúc này.

Cần tư duy mới để tháo gỡ tồn tại, hạn chế

Để tháo gỡ những tồn tại, Hội Môi giới bất động sản Việt Nam cho rằng, cần xác định vai trò chủ đạo của Nhà nước, của chính quyền các địa phương trong bảo đảm mọi điều kiện cần và đủ để thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội như: Quỹ đất, thủ tục, nguồn vốn... Trong đó, doanh nghiệp được xác định là đối tượng được mời tham gia thực hiện, tạo điều kiện để họ vận dụng năng lực kinh nghiệm triển khai phát triển nhà ở xã hội theo các chương trình mà nhà nước, địa phương xác lập.

noxh.jpg
Xác định vai trò chủ đạo của Nhà nước, của chính quyền các địa phương trong bảo đảm mọi điều kiện cần và đủ để thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội. (Ảnh: PV)

Về quỹ đất, các địa phương cần quy hoạch, bố trí quỹ đất cụ thể và hợp lý cho phát triển nhà ở xã hội, đưa chỉ tiêu này vào chương trình phát triển nhà ở giai đoạn 5 năm và hàng năm. Cần áp dụng cơ chế thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng từ ngân sách hoặc theo hình thức BT, PPP, đổi đất lấy hạ tầng để chủ động tạo lập quỹ đất sạch. Khuyến khích các doanh nghiệp có quỹ đất sẵn đưa vào phát triển nhà ở xã hội thông qua cơ chế hỗ trợ chuyển mục đích sử dụng đất, miễn giảm nghĩa vụ tài chính. Đồng thời, hỗ trợ chuyển đổi các dự án hoặc quỹ đất dự án chưa phù hợp nhu cầu thành nhà ở xã hội.

Về thủ tục đầu tư và lựa chọn chủ đầu tư, để khuyến khích doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển nhà ở xã hội, cần rút gọn quy trình chấp thuận đầu tư, đơn giản hóa thủ tục lựa chọn chủ đầu tư bằng cơ chế chỉ định thầu minh bạch, công khai. Quy định điều kiện lựa chọn chủ đầu tư, cũng giảm thiểu ở mức phù hợp nhất, như điều kiện kinh doanh, năng lực, nguồn vốn và kinh nghiệm thực hiện. Áp dụng hậu kiểm thay vì tiền kiểm đối với một số nội dung không cốt lõi, cắt giảm các thủ tục chồng chéo, kéo dài thời gian phê duyệt dự án.

Về nguồn vốn, cần xây dựng các quỹ phát triển nhà ở xã hội cấp trung ương và địa phương, sử dụng từ nguồn thu quỹ đất, ngân sách, đóng góp từ các doanh nghiệp, khu công nghiệp. Đồng thời cần thúc đẩy việc phát triển mô hình quỹ đầu tư, quỹ tín thác bất động sản hướng vào phân khúc nhà ở xã hội. Song song với việc ban hành các chính sách tín dụng đặc thù với lãi suất thấp, thời gian trả dài hạn, linh hoạt cho cả doanh nghiệp đầu tư và người dân mua hoặc thuê mua nhà ở xã hội.

Về cơ chế tại địa phương, các địa phương phải chủ động ban hành chính sách hỗ trợ phù hợp với đặc thù nhu cầu thực tế: phát triển nhà cho thuê, đa dạng hóa mô hình, lựa chọn đúng nhóm đối tượng có nhu cầu thật. Tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi trục lợi chính sách, nhũng nhiễu, gây khó dễ trong triển khai.

Về chính sách đầu ra, cần minh bạch và đơn giản hóa thủ tục xác định đối tượng thụ hưởng, chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm. Có chính sách hỗ trợ cho thuê-thuê mua đối với nhóm người lao động không đủ năng lực tài chính để mua nhà. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nhà ở xã hội để bảo đảm công bằng, minh bạch và đồng bộ trong tiếp cận.

Xem thêm