Ông Raman Hailevich: "Cách tiếp cận của Việt Nam mang tính chiến lược và hướng tới tương lai"

Ông Raman Hailevich: "Cách tiếp cận của Việt Nam mang tính chiến lược và hướng tới tương lai"

UNAIDS Việt Nam đánh giá Việt Nam có cách tiếp cận mang tính chiến lược và hướng tới tương lai – đó là chuyển đổi quyết liệt từ sự phụ thuộc vào nhà tài trợ sang ứng phó HIV chủ yếu dựa vào nguồn lực trong nước, dựa trên ý chí chính trị mạnh mẽ, chính sách hợp lý và kế hoạch chuyển đổi nguồn tài chính rõ ràng.

Những người “giữ lửa” cho công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam

Đến hết năm 2024, cả nước ghi nhận 245.762 người nhiễm HIV còn sống và 116.004 người nhiễm HIV tử vong lũy tích. Dịch HIV diễn biến phức tạp tại phía nam, với hơn 40% số ca nhiễm mới là nhóm người MSM. Công tác phòng, chống HIV/AIDS vẫn còn lỗ hổng lớn khi số người nhiễm mới vẫn cao, tỷ lệ biết tình trạng chưa đạt mục tiêu, nhiều hạn chế trong tiếp cận nhóm nguy cơ cao.

Năm 2025, Việt Nam chọn chủ đề “Đoàn kết là sức mạnh – Chung tay chấm dứt dịch bệnh AIDS” – một lần nữa, kêu gọi sự vào cuộc của cả cộng đồng. Trong hành trình này, dù các nguồn lực tài chính đang giảm dần, Việt Nam vẫn đang nỗ lực có những giải pháp để lấp đi những khoảng trống trong công tác phòng, chống HIV. Trong hành trình ấy, có nhiều người vẫn chọn ở lại một cách thầm lặng, vì một cộng đồng không còn HIV.

Bài 1: Những "chiến binh không tên" trong cuộc phòng, chống HIV/AIDS

Bài 2: Khoảng trống cộng đồng - Thách thức thầm lặng trong hành trình chống HIV

Bài 3: Chấm dứt HIV/AIDS: Thách thức và giải pháp bền vững

Những thành quả trong công tác phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam được minh chứng rõ 35 năm qua. Ông Raman Hailevich, Giám đốc quốc gia Chương trình Phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS Việt Nam) đã có những chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân về ghi nhận của quốc tế với Việt Nam trong công tác phòng, chống HIV/AIDS và chia sẻ sẵn sàng đồng hành cùng Việt Nam vượt qua những thách thức để tiến tới mục tiêu chấm dứt HIV/AIDS vào năm 2030.

hiv55.jpg

Phóng viên: Theo đánh giá của UNAIDS, những thách thức lớn nhất mà Việt Nam hiện đang đối mặt trong công tác phòng, chống HIV/AIDS là gì?

Ông Raman Hailevich: Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể hướng tới mục tiêu chấm dứt AIDS như một mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng vào năm 2030.

Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2024, Việt Nam đã giảm gần 60% số ca nhiễm HIV mới và số ca tử vong liên quan đến AIDS giảm 57% so với mức đỉnh điểm khoảng 7.400 ca tử vong vào năm 2006 xuống chỉ còn hơn 4.200 ca tử vong vào năm 2024.

Thành tựu này không phải tự nhiên mà có. Đây là kết quả của đáp ứng mang tính toàn diện và liên tục thích ứng với tiến triển của dịch HIV tại Việt Nam - kết hợp việc chủ động phát hiện ca bệnh và kết nối nhanh chóng tới điều trị, các phương pháp xét nghiệm và điều trị hiệu quả, cùng với những nỗ lực giảm hại và dự phòng HIV đa dạng, hợp tác với các tổ chức cộng đồng để tiếp cận được hiệu quả tới những người có nguy cơ cao nhất.

Tính đến cuối năm 2024, 82% số người được chẩn đoán mắc HIV đã được điều trị và gần 75.000 người có nguy cơ cao bị lây nhiễm HIV đã tiếp cận được dịch vụ dự phòng trước phơi nhiễm hay còn gọi là PrEP - một biện pháp dự phòng HIV quan trọng đang được mở rộng.

Nói về những thách thức còn ở phía trước thì thực ra có khá nhiều. Tôi xin nêu một vài thách thức chính.

20241207-092201.jpg
Anh Nguyễn Anh Phong chia sẻ về vấn đề phòng ngừa HIV và bạo lực trên cơ sở giới.

Thứ nhất, độ bao phủ của các dịch vụ dự phòng lây nhiễm HIV vẫn còn quá thấp. Lấy PrEP làm thí dụ. Đây là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để ngăn ngừa các ca nhiễm HIV mới, nhưng Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 20% mục tiêu quốc gia. Chiến lược đặt mục tiêu đạt độ bao phủ dịch vụ PrEP 25% vào năm 2025 và 40% vào năm 2030, nhưng theo UNAIDS, để chấm dứt AIDS như một mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng, chúng ta cần phải đạt gần 70%. Vì vậy, tốc độ mở rộng cung cấp dịch vụ rõ ràng là chưa đủ nhanh.

Thứ hai, về tài chính. Viện trợ quốc tế, đặc biệt là từ Quỹ Toàn cầu và PEPFAR, đã giảm sút, tạo ra một khoảng trống lớn. Tài chính trong nước hiện chiếm khoảng một nửa tổng chi tiêu cho phòng chống HIV, đây là một bước tiến đáng kể, nhưng vẫn chưa đủ để bảo đảm độ bao phủ dịch vụ cần thiết trên phạm vi toàn quốc. Việt Nam cần tiếp tục cải thiện hệ thống pháp lý và tài chính để ngân sách Trung ương và địa phương, nguồn bảo hiểm y tế và đóng góp của cộng đồng cùng được huy động tối đa, với mục tiêu bảo đảm nguồn tài chính trong nước đáp ứng đủ cho công tác phòng, chống HIV vào năm 2030.

Thứ ba, chúng ta cũng cần sự tham gia mạnh mẽ hơn từ khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội và cộng đồng trong phòng chống HIV. Họ có thể tiếp cận được những người có nguy cơ cao nhất, nhưng hiện chưa có chính sách và cơ chế tài chính thật thuận lợi để họ đóng góp được tối ưu và bền vững cho công tác phòng chống HIV.

Việc tạo lập cơ chế tài chính để có thể sử dụng nguồn ngân sách của nhà nước cho việc mua dịch vụ phòng chống HIV hoặc hỗ trợ thêm cho các nhóm này sẽ tạo ra sự khác biệt rất lớn. Đồng thời, việc áp dụng thu phí dịch vụ HIV cần được cân nhắc kỹ càng để bảo đảm khả năng chi trả của người có HIV và các nhóm đối tượng đích.

visual-selection-16.png

Về mặt tổ chức hệ thống, việc tái cơ cấu các cơ quan y tế đã làm giảm số lượng cán bộ y tế chuyên trách về HIV, cả ở cấp quốc gia và địa phương. Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đẩy nhanh tiến độ hướng tới thực hiện các mục tiêu quốc gia.

Ngoài ra, với việc phân cấp mạnh mẽ đã và đang diễn ra ở Việt Nam, theo đó kể từ năm 2026 các tỉnh sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc mua sắm và quản lý thuốc kháng virus. Đây là một sự thay đổi lớn sau nhiều năm quản lý tập trung. Một số tỉnh đã sẵn sàng, một số khác thì chưa. Việc xây dựng, hỗ trợ năng lực của các tỉnh, thành phố trong việc lập ngân sách, tổ chức mua sắm, quản lý hiệu quả thuốc ARV cho điều trị HIV là vô cùng cần thiết.

take-home-mmt.jpg
Thí điểm cấp phát thuốc methadone mang về nhà, thể chế hóa trong Nghị định 141/2024 về HIV.

Nhìn chung, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ mạnh mẽ nhưng để duy trì những kết quả đã đạt được, Việt Nam cần bảo đảm nguồn tài chính ổn định cho phòng chống HIV, năng lực của chương trình quốc gia và các cơ quan, tổ chức liên quan, và quan hệ đối tác bền vững với các tổ chức xã hội và cộng đồng để có thể tiếp cận được những người có nguy cơ bị lây nhiễm HIV cao nhất.

Phóng viên: UNAIDS nhìn nhận như thế nào về nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc duy trì bền vững các nguồn lực tài chính và dịch vụ y tế cho người nhiễm HIV khi các nguồn viện trợ quốc tế đang giảm dần?

Ông Raman Hailevich: Tất cả các trụ cột để bảo đảm thành công mà tôi đã đề cập đều cần được duy trì và củng cố hơn nữa. Tuy nhiên, một số dịch vụ quan trọng như tìm kiếm ca bệnh trong cộng đồng, PrEP, điều trị HIV phác đồ bậc hai và các dịch vụ dự phòng do các tổ chức cộng đồng cung cấp vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn tài trợ từ bên ngoài. Nếu không có sự đầu tư mạnh mẽ hơn từ nguồn lực trong nước, một số dịch vụ thiết yếu này có thể bị gián đoạn.

Hiện tại, hai nguồn hỗ trợ quốc tế chính cho phòng chống HIV của Việt Nam là từ Chính phủ Hoa Kỳ và Quỹ Toàn cầu đều đang suy giảm một cách nhanh chóng và đáng kể. Nếu nguồn lực trong nước không bù đắp được khoảng thiếu hụt do suy giảm nguồn tài trợ thì đến năm 2030 chúng ta có thể chứng kiến số ca nhiễm HIV mới tăng lên mức chưa từng thấy kể từ năm 2010, đảo ngược tiến bộ đã đạt được nhờ những nỗ lực to lớn trong nhiều năm qua. Đây chính là thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt: làm thế nào để duy trì các dịch vụ và nguồn tài chính cho HIV khi nguồn hỗ trợ từ bên ngoài giảm đi rất nhiều.

nhung-chien-binh-khong-ten-6.jpg

Quá trình chuyển đổi này không hề dễ dàng khi Việt Nam đang thực hiện cùng lúc nhiều cải cách lớn và có nhiều ưu tiên trong phát triển kinh tế-xã hội.

Tin tốt là Việt Nam không phải bắt đầu từ con số không.

Việt Nam đã có khoảng 90% bệnh nhân điều trị ARV được hỗ trợ thông qua nguồn bảo hiểm y tế và 96% người có HIV đã tham gia bảo hiểm y tế. Đây là một thành tựu to lớn và là dấu hiệu rõ ràng cho thấy vai trò lãnh đạo và cam kết chính trị của Chính phủ, điều mà UNAIDS và các đối tác quốc tế ghi nhận sâu sắc.

Tôi xin đề cập đến một số dấu ấn về chính sách trong thời gian gần đây đang giúp bảo đảm tính bền vững của công tác phòng chống HIV.

Thứ nhất, Nghị quyết số 72 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thông qua tháng 9/2025, mở đường cho Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả một số dịch vụ dự phòng, bao gồm cả phòng ngừa HIV.

Thứ hai, Chương trình Mục tiêu quốc gia về sức khỏe, dân số và phát triển (2026-2035) đã đưa phòng ngừa và kiểm soát HIV vào chương trình nghị sự y tế quốc gia. Chương trình cũng đặt ra trách nhiệm rõ ràng về bảo đảm nguồn lực tài chính từ ngân sách trung ương và địa phương, điều này rất quan trọng trong bối cảnh nguồn tài trợ quốc tế đang giảm sút.

Thứ ba, Luật Phòng bệnh hiện đang được Quốc hội xem xét, dự kiến sẽ thành lập Quỹ Phòng bệnh - một cơ chế tài chính mới để huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước và hệ thống bảo hiểm y tế.

Song song với đó, Bộ Y tế đang hoàn thiện Đề án quốc gia về phòng chống HIV/AIDS đến năm 2030 và bảo đảm dịch không tái bùng phát sau năm 2030. Đây là một lộ trình hướng tới duy trì bền vững các hoạt động ứng phó hiệu quả với HIV trong dài hạn với các giải pháp về chính sách và nhiệm vụ giao cho các bộ, ngành và tỉnh, thành phố triển khai thực hiện.

Ngoài ra, Việt Nam cũng đang nỗ lực củng cố hệ thống y tế cơ sở trong bối cảnh chính quyền 2 cấp, bảo đảm rằng các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV tiếp tục duy trì ổn định và dễ tiếp cận với mọi người dân.

Tôi cho rằng, cách tiếp cận của Việt Nam mang tính chiến lược và hướng tới tương lai – đó là chuyển đổi quyết liệt từ sự phụ thuộc vào nhà tài trợ sang ứng phó HIV chủ yếu dựa vào nguồn lực trong nước, dựa trên ý chí chính trị mạnh mẽ, chính sách hợp lý và kế hoạch chuyển đổi nguồn tài chính rõ ràng.

hiv5555555555.jpg

Phóng viên: Khi hình thái lây nhiễm tại Việt Nam gia tăng trong nhóm MSM, những nguy cơ lây nhiễm gia tăng HIV trong giới trẻ. Theo ông, Việt Nam cần phải quan tâm để tăng cường phát hiện ca nguy cơ của nhóm cộng đồng này thế nào để ngăn chặn nguồn lây trong cộng đồng?

Ông Raman Hailevich: Hình thái lây nhiễm HIV ở Việt Nam vẫn đang biến động. Chúng ta đang chứng kiến ngày càng nhiều ca nhiễm mới trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới, đặc biệt là ở người trẻ. Điều đó có nghĩa là các chiến lược dự phòng lây nhiễm của Việt Nam phải tiếp tục thích ứng và đi trước một bước trong ứng phó với dịch.

Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể với dịch vụ tiếp cận người có nguy cơ cao và xét nghiệm sàng lọc do cộng đồng thực hiện, các hình thức cung cấp dịch vụ xét nghiệm đa dạng và thuận tiện, bao gồm cả trên các nền tảng trực tuyến và kỹ thuật số, và sự tích hợp giữa xét nghiệm, PrEP và các dịch vụ dự phòng khác. Một số tỉnh, thành phố cũng đã triển khai các dịch vụ thân thiện với thanh thiếu niên, đây là một bước tiến đáng ghi nhận.

Nhưng chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa. Để tăng cường phát hiện và phòng ngừa ở thanh thiếu niên, Việt Nam có thể tập trung vào việc tinh chỉnh các chương trình cung cấp dịch vụ để dịch vụ dễ tiếp cận hơn, bảo mật tốt hơn và phù hợp hơn với nhu cầu của nhóm đối tượng đích trẻ. Đồng thời, chúng ta nên trao quyền cho các doanh nghiệp xã hội do cộng đồng làm chủ và các nhóm đồng đẳng, bởi vì họ là những người hiểu rõ nhất cách tiếp cận để đưa dịch vụ đến được với những người có nguy cơ cao nhất.

Một yếu tố quan trọng khác là giảm kỳ thị liên quan đến HIV và kỳ thị trên cơ sở giới. Thanh thiếu niên cần cảm thấy an toàn khi tìm kiếm các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ, xét nghiệm và dự phòng lây nhiễm HIV. Điều này có thể bắt đầu bằng việc tạo ra đối thoại cởi mở về đa dạng giới trong trường học, nơi làm việc và cộng đồng, cùng với cung cấp thông tin thiết thực và chính xác về chăm sóc sức khỏe tình dục.

image-4.jpg
Cán bộ y tế tư vấn sử dụng thuốc với khách hàng.

Cuối cùng là dữ liệu chương trình HIV. Việc giám sát chặt chẽ và bảo đảm chất lượng dữ liệu là vô cùng cần thiết để bảo đảm can thiệp đúng chỗ, đúng thời điểm và phát huy hiệu quả cao nhất. Điều này đồng nghĩa với việc xây dựng một văn hóa “dữ liệu dẫn dắt hành động” - nghĩa là phân tích và sử dụng thông tin để xây dựng can thiệp không chỉ ở cấp quốc gia mà còn ở cấp tỉnh/thành phố, phòng khám và chương trình cộng đồng. Khi dữ liệu được sử dụng hiệu quả sẽ trở thành công cụ cho phép ứng phó với HIV nhanh hơn, thông minh hơn và trúng mục tiêu hơn.

Việt Nam đã có một nền tảng vững chắc. Bước tiếp theo là nhân rộng những hoạt động hiệu quả, trao quyền cho cộng đồng và thanh thiếu niên, giải quyết triệt để vấn nạn về kỳ thị, và bảo đảm mọi quyết định từ tài trợ đến tiếp cận cộng đồng đều được định hướng bởi dữ liệu có chất lượng.

visual-selection-15.png

Phóng viên: UNAIDS đánh giá ra sao về vai trò của truyền thông, giáo dục giới tính và giảm kỳ thị đối với người nhiễm HIV trong việc thúc đẩy phòng ngừa và điều trị hiệu quả tại Việt Nam?

Ông Raman Hailevich: Truyền thông đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nỗ lực chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030. Truyền thông không chỉ giúp nâng cao nhận thức mà còn cung cấp thông tin chính xác, dựa trên khoa học để mọi người hiểu được đường lây truyền HIV, cách phòng ngừa và phương pháp điều trị mới và hiệu quả cho phép những người có HIV sống lâu dài, khỏe mạnh và không tiếp tục làm lây truyền HIV.

Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng trên thực tế sự kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV vẫn là những rào cản lớn trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ. Ngay cả những thông tin truyền thông có thiện chí đôi khi cũng có thể gây hại nếu không được xử lý cẩn thận.

Thí dụ, khi các thông điệp truyền thông tập trung vào một số "nhóm nguy cơ" nhất định thay vì tập trung vào các hành vi và khả năng dự phòng HIV, chúng có thể vô tình củng cố định kiến và khiến mọi người lảng tránh sử dụng dịch vụ xét nghiệm và điều trị HIV.

Đó là lý do tại sao UNAIDS kêu gọi mạnh mẽ việc truyền thông một cách có trách nhiệm, bao trùm và trao quyền. Thông điệp truyền thông nên tập trung vào sự hợp tác, trách nhiệm chung và đoàn kết, không đổ lỗi. Thông điệp nên tránh sử dụng ngôn từ giật gân hoặc "câu view", thay vào đó hãy phổ biến sự thật rằng HIV có những phương cách dự phòng tích cực, HIV có thể điều trị và quản lý hiệu quả như một bệnh mạn tính, và những người sống chung với HIV không phải là vấn đề, mà là một phần của giải pháp.

r6221299-1.jpg
Tư vấn và xét nghiệm sàng lọc HIV với tổ chức cộng đồng ở Điện Biên.

Đồng thời, giáo dục giới tính và tình dục toàn diện cho thanh thiếu niên là vô cùng quan trọng. Đây là một trong những cách hiệu quả nhất để trang bị cho các em kiến thức và sự tự tin để đưa ra những lựa chọn sáng suốt. Điều này không nhằm mục đích khuyến khích rủi ro mà là thúc đẩy sức khỏe, sự tôn trọng và khả năng tự bảo vệ bản thân.

Tóm lại, truyền thông, giáo dục giới tính và giảm kỳ thị không phải là những cấu phần “mềm” của ứng phó với HIV, chúng là những can thiệp y tế công cộng cốt lõi. Khi mọi người được cung cấp thông tin đúng và đủ, được tôn trọng và không bị phán xét, họ sẽ sẵn sàng hơn trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xét nghiệm, dự phòng và điều trị HIV — và đó là cách chúng ta tiến gần hơn đến việc chấm dứt dịch bệnh AIDS ở Việt Nam.

hiv555555.jpg

Phóng viên: Trong giai đoạn tới, UNAIDS có kế hoạch hoặc sáng kiến cụ thể nào nhằm hỗ trợ Việt Nam đạt được các chỉ tiêu 95-95-95 và tiến tới chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030?

Ông Raman Hailevich: Trong thời gian tới, UNAIDS sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Bộ Y tế và các đối tác để bảo đảm Việt Nam không chỉ đạt được mục tiêu 95-95-95, hướng tới chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030 mà còn duy trì bền vững những thành quả đó.

Hỗ trợ kỹ thuật của chúng tôi sẽ tập trung vào tăng cường và bảo đảm tính bền vững của đáp ứng quốc gia với HIV. Điều này có nghĩa là giúp huy động và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực ở trong nước, thông qua nguồn ngân sách trung ương và địa phương, Quỹ Bảo hiểm Y tế, và sắp tới là Quỹ Phòng bệnh.

Một trong những ưu tiên hàng đầu của UNAIDS là hỗ trợ bảo đảm nguồn tài chính ổn định cho các dịch vụ phòng chống HIV do tổ chức cộng đồng cung cấp. Tổ chức cộng đồng giúp bảo đảm đội ngũ nhân viên tiếp cận cộng đồng để liên tục tiếp cận những người có nguy cơ cao nhất, kết nối họ với các dịch vụ phòng chống HIV và giúp duy trì tuân thủ điều trị.

Theo hướng dẫn mới nhất của UNAIDS về bảo đảm bền vững tài chính, hỗ trợ các sáng kiến cộng đồng là một trong 6 ưu tiên hàng đầu để các quốc gia xây dựng được đáp ứng bền vững lâu dài với HIV.

report-back-nhom-1.jpg
Thảo luận nhu cầu về hỗ trợ duy trì bền vững sự tham gia của cộng đồng trong phòng, chống HIV/AIDS.

Việc củng cố hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt là ở các trạm y tế xã cũng cần được đặc biệt coi trọng. Đây là những cơ sở tuyến đầu kết nối người dân với công tác dự phòng HIV, xét nghiệm và điều trị. Trong thời gian tới, chúng tôi dự định sẽ hỗ trợ Bộ Y tế xây dựng cơ chế phân bổ tài chính theo nhiệm vụ được giao và các giải pháp thiết thực khác để bảo đảm các dịch vụ này được duy trì liên tục và bền vững.

UNAIDS sẽ tiếp tục là một đối tác chiến lược của Việt Nam, cùng đồng hành và hỗ trợ xây dựng chính sách, lập kế hoạch bền vững và phát triển năng lực - để mọi người sống với HIV hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV đều có thể tiếp cận được các dịch vụ mà họ cần và để Việt Nam có thể đạt được mục tiêu chấm dứt AIDS, để AIDS không còn là mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng vào năm 2030.

Xin cảm ơn ông Raman Hailevich!

Xem thêm