Cà phê là một trong những sản phẩm nông nghiệp chủ lực ở Tây Nguyên. (Trong ảnh: Doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm tại Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 9 năm 2025. ảnh KHIẾU MINH)
Cà phê là một trong những sản phẩm nông nghiệp chủ lực ở Tây Nguyên. (Trong ảnh: Doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm tại Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 9 năm 2025. ảnh KHIẾU MINH)

Nông nghiệp Tây Nguyên phát triển quy mô lớn, công nghệ cao

Tây Nguyên đang đứng trước cơ hội lớn để bứt phá bằng mô hình kinh tế nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao. Đây không chỉ là hướng đi tất yếu nhằm nâng cao giá trị nông sản, mà còn là lời giải cho bài toán phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu và hội nhập thị trường toàn cầu.

Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 371/QĐ-TTg đã xác lập một định hướng rõ ràng: phát triển vùng nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, quy mô lớn, hiệu quả cao, áp dụng công nghệ hiện đại và chuyên sâu theo từng tiểu vùng khí hậu, địa hình.

Nhiều tiềm năng để phát triển

Hiện tại, Tây Nguyên sở hữu hơn 5 triệu ha đất tự nhiên, trong đó có khoảng 3 triệu ha đất sản xuất nông, lâm nghiệp. Toàn vùng đóng góp khoảng 43% tổng sản lượng cà-phê cả nước, gần 25% sản lượng hồ tiêu và chiếm hơn 17% sản lượng cao-su. Tuy nhiên, phần lớn diện tích vẫn do nông hộ canh tác nhỏ lẻ, quy mô dưới 2 ha, khó áp dụng đồng bộ kỹ thuật canh tác hiện đại.

Quy hoạch mới xác định rõ nhóm cây trồng chủ lực gồm cà-phê, cao-su, điều, hồ tiêu, chè, mía, dâu tằm, bông vải. Bên cạnh đó là nhóm cây ăn quả tiềm năng như sầu riêng, bơ, chanh leo, chôm chôm, mít, kết hợp cùng cây dược liệu, rau hoa ôn đới, sâm Ngọc Linh. Đây là bước dịch chuyển chiến lược sang nông nghiệp giá trị cao, hướng đến chế biến sâu và xuất khẩu.

Trước đây, vùng Tây Nguyên quy hoạch bao gồm toàn bộ địa giới hành chính của năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Tới đây, ba tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Đắk Nông sẽ sáp nhập thành tỉnh Lâm Đồng mới, được nhận định sẽ tạo thành một thực thể kinh tế - hành chính lớn mạnh, đặc biệt là phát triển kinh tế xanh và bền vững cho khu vực miền trung-Tây Nguyên...

Tại Hội thảo “Những định hướng phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Lâm Đồng mới trong giai đoạn 2026 đến 2030”, PGS, TS Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho rằng tỉnh Lâm Đồng mới sẽ hội tụ nhiều điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội thuận lợi để phát triển kinh tế xanh.

Cụ thể, vùng đất bazan màu mỡ phù hợp với nông nghiệp công nghệ cao. Hệ sinh thái rừng nguyên sinh giàu đa dạng sinh học là nền tảng phát triển du lịch sinh thái chất lượng cao. Bên cạnh đó, đường bờ biển dài mở ra dư địa lớn về năng lượng gió và năng lượng mặt trời.

PGS, TS Nguyễn Đình Thọ khẳng định sự đa dạng chính là nền tảng cho đổi mới sáng tạo xanh. Cùng với điều kiện tự nhiên, hệ thống chính sách đang tạo đòn bẩy mạnh. Các Nghị quyết 57, 59, 66 và 68 của Bộ Chính trị cùng các chủ trương của Quốc hội về phát triển bền vững, kinh tế xanh đã thiết lập khung pháp lý và định hướng rõ ràng. Những chính sách này không chỉ mang tính dẫn dắt mà còn tạo niềm tin cho nhà đầu tư.

Cũng theo ông Thọ, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều công nghệ mới đang mở ra hướng đi đột phá. AI, IoT, Big Data và công nghệ sinh học đang thay đổi cách làm nông nghiệp, bảo vệ môi trường và phát triển năng lượng tái tạo.

Vẫn cần một hạ tầng kết nối sản xuất đủ mạnh

Bên cạnh những thuận lợi, một số chuyên gia vẫn cho rằng, Tây Nguyên có lợi thế lớn về sản xuất nguyên liệu nông sản, nhưng nhiều điểm nghẽn đang cản trở vùng phát huy tiềm năng. Tư duy sản xuất của người dân chưa theo kịp yêu cầu của kinh tế thị trường; tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch còn cao.

Cùng với đó, các khâu chế biến, bảo quản, dự trữ nông sản còn yếu, hệ thống kho lạnh và hạ tầng logistics thiếu và kém chất lượng, dẫn đến chi phí vận chuyển cao, làm giảm sức cạnh tranh về giá. Nông sản lại mang tính mùa vụ, dễ hư hỏng, trong khi công tác dự báo thị trường chưa kịp thời cả về sản lượng lẫn giá bán. Nếu không sớm tháo gỡ, những nút thắt này sẽ tiếp tục cản trở sự phát triển bền vững của nông nghiệp Tây Nguyên.

Tính đến năm 2024, toàn vùng chỉ mới có khoảng 17.000 ha nông nghiệp công nghệ cao, chiếm chưa đến 1% diện tích đất sản xuất. Mô hình còn phân tán, thiếu đồng bộ, phần lớn là các dự án trình diễn quy mô nhỏ. Ngoài ra, chỉ có 14 doanh nghiệp tại Tây Nguyên được chứng nhận là doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao.

Trong khi đó, theo định hướng đến 2030, vùng cần thu hút ít nhất 100 doanh nghiệp đủ năng lực tổ chức vùng nguyên liệu, chế biến và xây dựng thương hiệu vùng. Vấn đề không chỉ nằm ở thiếu vốn hay thiếu đất. Mấu chốt là thiếu một hạ tầng kết nối sản xuất đủ mạnh để doanh nghiệp có thể vận hành toàn chuỗi. Nhiều dự án rơi vào tình trạng “chết lâm sàng” vì không thể mở rộng vùng nguyên liệu, không có logistics lạnh, chưa tiếp cận được tín dụng ưu đãi và thiếu nguồn nhân lực kỹ thuật tại chỗ.

Ngoài ra, ông Đặng Đình Long, Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư Thương mại Mega A cho rằng, để đáp ứng yêu cầu thị trường, các địa phương cần khẩn trương quản lý mã số vùng trồng. Các tỉnh trong vùng phải quyết liệt hơn trong việc cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, coi đó như việc “cấp căn cước công dân gắn chip”, nhằm minh bạch hóa quy trình sản xuất, bảo đảm an toàn thực phẩm.

Ông Long nhấn mạnh, đây chính là hàng rào thương mại, kỹ thuật mà thị trường quốc tế đã thiết lập. Nếu không chủ động thích ứng, nguy cơ nông sản rơi vào cảnh “giải cứu” vẫn tiếp diễn, dù nhu cầu thị trường còn rất lớn.

Xem thêm