1. Ngày 15/10, tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, cuốn hồi ký “Đâu có giặc là ta cứ đi” (tên bản gốc “Đường tôi đi”) của Anh hùng liệt sĩ Lê Văn Dỵ ra mắt công chúng trong lần tái bản thứ ba. Hơn 55 năm sau ngày ông hy sinh, cuốn hồi ký trở lại với nhiều tư liệu bổ sung.
Ngày 22/12/1964, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ông bắt đầu viết hồi ký trong cuốn sổ phần thưởng Đại hội Chiến sĩ thi đua Sư đoàn 316: “… Là một đảng viên cộng sản, là một cán bộ cách mạng của một giai cấp, một dân tộc anh hùng - đường đã đi tôi đi nhất định tới đích. Dù có gặp chông gai, sóng gió, dù có gian nan nguy hiểm tôi cũng quyết tâm vượt qua...”.
Từng trang hồi ký ghi lại những đêm hành quân bùn ngập đến thắt lưng, những bữa cơm vừa nóng đã phải cất vội vào ba-lô, những kỷ niệm về tình đồng đội, tình quân dân. Ông viết: “Người cách mạng yêu quý gia đình, yêu quý Tổ quốc, nhân dân mình, nhưng phải có tinh thần quốc tế cao cả…”.
Bản thảo dừng lại ngày 17/3/1965, trước khi ông sang Lào nhận nhiệm vụ Phó ban Tác chiến Sư đoàn 316 và gửi cuốn sổ lại hậu cứ Mộc Châu. Năm 1970, ông hy sinh trong Chiến dịch Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng.
Tác phẩm được xuất bản lần đầu năm 2009, lấy tựa đề “Đâu có giặc là ta cứ đi”. Đây là câu nói nổi tiếng của ông trong Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và khơi nguồn cảm hứng để nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác ca khúc “Hành quân xa”.
Sinh năm 1926 tại xã Mê Linh (Hà Nội), Lê Văn Dỵ tham gia cách mạng từ năm 18 tuổi. Hơn 20 năm quân ngũ, ông có mặt trong nhiều chiến dịch lớn. Trận đánh ghi dấu tên tuổi ông là cứ điểm C1-Điện Biên Phủ. Là Đại đội trưởng 811 (Tiểu đoàn 888, Trung đoàn 176, Đại đoàn 316), ông được giao nhiệm vụ chỉ huy đơn vị phòng ngự độc lập và tiến đánh C1, cứ điểm then chốt của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Suốt 20 ngày đêm bám trụ, ông đề xuất hai sáng kiến táo bạo: Đào đường hầm từ trận địa ta tới thẳng lô cốt cột cờ của địch và xây dựng hệ thống trận địa liên hoàn. Nhờ sáng kiến đó, đại đội nhanh chóng tiêu diệt hai ổ đề kháng, cắm cờ lên đỉnh C1. Ghi nhận chiến công xuất sắc này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã biểu dương và ký lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba cho Đại đội 811 tại mặt trận.
Tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam hiện lưu giữ bản gốc hồi ký “Đường tôi đi”. Trang viết ngày 22/3/1966, ông đã viết bằng máu: “... tôi tuyệt đối tin tưởng, nhất trí và một lòng một dạ trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Tôi đi bất cứ nơi nào Đảng, Tổ quốc gọi đến...”. Quyết tâm thư này đã được đưa vào “Phòng lưu trữ” của Tổng cục Chính trị.
Trong buổi lễ ra mắt sách, nhà thơ Trần Đăng Khoa xúc động nói: “Cuốn sách không chỉ là câu chuyện về Anh hùng Lê Văn Dỵ, mà còn là câu chuyện của Quân đội nhân dân Việt Nam, bởi chính sử đôi khi nằm trong những con người cụ thể”.
Cuốn sách không chỉ là câu chuyện về Anh hùng Lê Văn Dỵ, mà còn là câu chuyện của Quân đội nhân dân Việt Nam, bởi chính sử đôi khi nằm trong những con người cụ thể.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa
2. Nhân kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Tổ chức “Trái tim người lính” và Câu lạc bộ “Mãi mãi tuổi 20” giới thiệu cuốn nhật ký thời chiến “Ghi vội trên mâm pháo” của thương binh, nhà giáo Nguyễn Thùy. Nhật ký được tác giả viết trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1968, khi ông làm nhiệm vụ canh giữ vùng trời Tây Bắc, Thượng Lào.
Nhật ký mở đầu bằng câu thơ: “Ta cưỡi mây cao núi bạt ngàn/ Ngồi trên mâm pháo ngước trời quang…”. Những trang viết ấy có tiếng bom gầm, tiếng máy bay hòa lẫn tiếng côn trùng; là cơm vắt muối rang, bát canh rau rừng, nước suối chia từng bi-đông; là những đêm ngủ võng giữa đại ngàn, những cuộc hành quân xuyên đêm; và cũng là tiếng cười rộn rã xen lẫn nỗi nhớ nhà, thương mẹ, thương người con gái chưa kịp hẹn...
Ngày 31/10/1967, trong trận chiến đấu ác liệt tại Mường Ngà (Sầm Nưa), đơn vị pháo của ông bị trúng bom. Nguyễn Thùy từ dưới công sự nhảy lên mâm pháo thay cho đồng đội vừa hy sinh. Một quả bom bi nổ trên đầu ông, mảnh bom găm khắp cơ thể, một mảnh làm gãy xương sườn, xuyên qua phổi. Chiếc mũ sắt đội đầu biến dạng, thủng nhiều lỗ. Ông gục xuống với khuôn mặt đầy máu. Hai mươi cán bộ, chiến sĩ hy sinh tại chỗ. Ông được đồng đội đặt lên cáng như một tử sĩ thứ 21 để chuẩn bị đưa đi mai táng thì phát hiện “cái xác” ấy còn thoi thóp thở…
Trong thời gian điều trị, Nguyễn Thùy luôn mong sớm được trở lại chiến đấu cùng đồng đội, nhưng vết thương quá nặng, tháng 7/1968, ông nhận quyết định xuất ngũ và được cử đi học.
Vượt lên gian khổ, hy sinh, những dòng nhật ký ông viết vẫn thấm đẫm tinh thần lạc quan: “… cuộc đời mình là một chuỗi ngày đẹp, đẹp nhất là những năm tháng được chiến đấu dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng và Bác Hồ trong cuộc chiến đấu quyết liệt chống giặc ngoại xâm...”.
Tại Trường đại học Bách khoa Hà Nội, anh trở thành “thủ lĩnh thanh niên”, tham gia các công trình tuổi trẻ: Đắp đường Thanh Niên, nạo vét sông Lừ, sông Sét, đào hồ: Bảy Mẫu, Thành Công... Năm 1993, ông phải phẫu thuật sọ não để lấy ra những mảnh bom. Sau cuộc đại phẫu, ông vẫn còn một viên bi nằm sâu trong não.
Đại tá, nhà văn Đặng Vương Hưng cho biết, tháng 8/2025, Tổ chức “Trái tim người lính” tiếp nhận hai cuốn nhật ký của nhà giáo Nguyễn Thùy với những trang viết chân thực, sinh động và kiêu hùng của thế hệ chiến sĩ phòng không đầu tiên. Cho rằng “đây không chỉ là ký ức của một người lính mà là di sản tinh thần của một thời hoa lửa”, nhà văn Đặng Vương Hưng đã động viên gia đình xuất bản thành sách, và đưa vào tủ sách “Mãi mãi tuổi hai mươi”.
3. Năm 1971, trước khi hy sinh tại Quảng Bình, Trung đội trưởng Đoàn Anh Thông (Trung đoàn 324, Sư đoàn 361) có dịp ghé thăm nhà. Như một dự cảm, ông để lại toàn bộ kỷ vật gồm cuốn nhật ký, hơn một trăm bức thư, sách vở, tăng võng và bộ quân phục. Cuốn nhật ký bắt đầu ngày 14/9/1965, bằng những dòng thơ da diết: “Ta sẽ viết lên - viết lên sự thật/ Của đời ta trong khói lửa chiến tranh/ Trong lửa đạn khói bom thù chồng chất/ Hay hòa bình cây lá lại màu xanh”.
Hơn 100 trang viết xen lẫn thơ và văn xuôi, ghi lại những chặng đường hành quân từ Thái Nguyên, Hà Nội vào Quảng Bình, cùng những suy nghĩ về tình yêu, tình đồng đội và nỗi nhớ gia đình, quê hương.
Nhà thơ Đoàn Văn Mật, cháu họ của liệt sĩ Đoàn Anh Thông, kể rằng, ngày 16/11/1971, mười ngày trước khi hy sinh, ông viết thư gửi người vợ trẻ, khi ấy đang mang thai con đầu lòng. Trong thư, ông dặn dò, nếu sinh con trai đặt tên là Phong, sinh con gái đặt tên là Thủy.
Phải đến năm 1976, gia đình mới nhận được giấy báo tử. Suốt nhiều năm qua, bà Lê Thị Chạy cùng con trai Đoàn Nam Phong nhiều lần từ Nam Định vào Quảng Bình (nay là Quảng Trị) để tìm mộ nhưng không có kết quả. Cuốn nhật ký, những bức thư là nơi gia đình gửi gắm niềm hy vọng tìm được phần mộ ông, cũng là nơi lưu giữ ký ức thiêng liêng về người đã khuất…
Những trang viết ấy vượt qua chiến tranh, vượt qua thời gian, trở thành chứng nhân cho một thế hệ người lính đã sống, chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc. Đọc lại, chúng ta hiểu hơn về cuộc kháng chiến gian lao mà anh dũng của dân tộc, càng thêm trân trọng giá trị của hòa bình hôm nay.