Nhiều thế hệ đồng bào Tà Ôi, Bru- Vân Kiều, Cơ Tu dọc dãy Trường Sơn từng gắn đời mình với rừng già. Họ đi theo con nước, phát nương làm rẫy. Được vài mùa, khi đất bạc màu, họ lại gùi gạo, bồng con dắt díu nhau đi tìm vùng đất mới. Lối sống du canh ấy để lại bao hệ lụy, cho đến khi người dân được vận động dừng chân, dựng bản làng, sinh sống cố định bên tuyến đường Hồ Chí Minh. Cuộc sống mới ổn định hơn, điện về thắp sáng mỗi ngôi nhà, trẻ em được đến trường, trạm y tế được xây dựng, hủ tục được xóa bỏ...
Bài 1: Ký ức một thời gian khó
Ông Lê Văn Trừ, nguyên Bí thư Huyện ủy A Lưới (tỉnh Thừa Thiên Huế trước đây) bộc bạch: Trước kia, đời sống du canh đầy bất trắc. Người Tà Ôi, Vân Kiều, Cơ Tu... sống rải rác khắp dãy Trường Sơn, dựng nhà chòi cạnh rẫy, “ăn của rừng, sống nhờ rừng”. Đến khi đất bạc màu, cả làng lại lũ lượt rời đi. Mưa lũ, cháy rừng, bệnh tật rình rập, trẻ con lớn lên không biết chữ, người ốm đau chỉ trông vào thầy mo, lá thuốc. Cái vòng đói-nghèo cứ luẩn quẩn không lối ra.
Chiến tranh kéo dài, rừng bị tàn phá, nguồn sống cạn kiệt. Cuộc sống nay đây mai đó đã bộc lộ bao hệ lụy. Đói nghèo triền miên, tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống khiến suy giảm nòi giống. Không ít bản làng chỉ vài chục nóc nhà, vài thế hệ chung một gốc tộc. “Những năm sau thống nhất, dù đất nước còn bộn bề khó khăn, Đảng và Nhà nước kiên trì vận động bà con định cư, lập bản, sắp xếp đơn vị hành chính, hỗ trợ lương thực, dựng trường mới đón trẻ em đến học. Từ chỗ chỉ có tên làng, nay có thêm tên xã, tỉnh...”, ông Lê Văn Trừ bồi hồi chia sẻ.
Các dự án định canh, định cư dọc đường Hồ Chí Minh đã mở ra trang mới cho cuộc sống của người dân nơi đây. Mới nhất là tộc người Rục (dân tộc Chứt) ở Minh Hóa, Quảng Bình (trước đây), từng sống rải rác trong hang đá, lán tạm, quanh năm hái lượm được phát hiện, vận động về bản. Nhà cửa dựng lên, có trạm y tế, trường học, có cán bộ cắm bản, kèm cặp, hướng dẫn từng hộ cách trồng lúa, nuôi trâu bò. Ban đầu vẫn có người bỏ về rừng, nhưng rồi được tuyên truyền, vận động... bà con quay lại, dần quen với cuộc sống cố định.
Ở Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế) và tỉnh Quảng Trị, đồng bào được định cư ở các trung tâm xã, thị trấn. Trẻ em lần đầu cắp sách đến lớp, các bà mẹ biết đưa con tới trạm xá, gia đình được cán bộ đến hướng dẫn gieo cấy, chăn nuôi, bộ đội biên phòng nhận đỡ đầu trẻ em biên giới. Tại các bản làng, tiếng khung cửi lách cách vui tai xen lẫn tiếng trẻ đọc bài. Đường sá, cột điện, trường học, trạm y tế dần hiện diện bên núi rừng xanh thẳm. Chính quyền địa phương cùng với người dân tích cực tìm giống cây, vật nuôi phù hợp để phát triển kinh tế...
Sau 50 năm định canh định cư, điểm sáng nổi bật ở vùng sâu vùng xa là giáo dục thay đổi. Các trường phổ thông đã giúp những đứa trẻ mù chữ, thành biết đọc, biết viết. Nhiều người sau đó đã trở thành thầy giáo, bác sĩ, bộ đội biên phòng, cán bộ xã... Với người Chứt ở bản Rục đã có em vào đại học, trưởng thành làm cán bộ, thầy giáo. Họ trở thành hạt nhân thay đổi, góp phần đưa tri thức về với bản, làng.
Ở lưng chừng dãy Trường Sơn hùng vĩ, cánh đồng Rục Làn của người Rục như bức tranh đẹp mắt. Từ chỗ chỉ quen săn bắt, hái lượm, hiện nay, người Rục nay đã biết trồng lúa nước, gặt lúa, phơi lúa như cư dân đồng bằng. Kết quả ấy không tự nhiên mà có, mà được khởi nguồn từ quyết tâm của Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Bình (trước đây). Các chiến sĩ biên phòng đào núi, đắp đập, dẫn nước về bản, rồi tận tình chỉ dẫn người dân từng khâu sản xuất, từ gieo giống, đắp bờ đến làm cỏ, tuốt lúa, phơi thóc. Nhờ vậy, đồng bào tin rằng ngay giữa rừng già, cây lúa cũng bén rễ, trổ bông trĩu hạt...
Ông Hồ Píu, 60 tuổi, xúc động kể: “Ngày trước sống nhờ con thú, cây rừng, đói khổ lắm. Giờ có ruộng, có nhà mới, có gạo ăn, gia đình tôi không lo đói như xưa nữa”. Giờ đây, 73 hộ người Rục đã có ruộng hai vụ, năng suất đạt 4,5-5 tấn/ha, thừa gạo ăn quanh năm. Những mùa vàng ấm no quanh năm đã khơi dậy ý chí vươn lên của người dân...
Cùng với giáo dục, nông nghiệp, y tế miền núi cũng tiến những bước dài. Trước đây, những cơn sốt rét từng là nỗi ám ảnh người dân; nay các bản có trạm y tế, cán bộ y tế cơ sở được đào tạo bài bản. Những chiến dịch tiêm chủng mở rộng giúp trẻ em vùng cao được bảo vệ như trẻ miền xuôi. Song hành với chính sách, những tuyến đường mở ra kết nối các vùng, miền. Nhiều bản làng mới mọc lên dọc hai bên tuyến đường Hồ Chí Minh. Bà con sống vừa gần đường giao thương, vừa dễ tiếp cận dịch vụ. Đường sá giúp nông sản có chỗ tiêu thụ, học sinh đi lại thuận tiện, cán bộ cơ sở cũng dễ bám bản hơn.
Điều dễ thấy nhất ở các bản làng định cư là sự đổi thay trong sinh hoạt thường ngày. Các Chương trình hỗ trợ của Chính phủ, các nguồn lực xã hội đã giúp người dân miền núi không còn phải sống trong các căn nhà tạm, dột nát. Gian thờ, bếp lửa vẫn giữ nhưng bên cạnh có ti-vi, xe máy. Lễ hội truyền thống sau nhiều năm mai một đã được phục hồi. Trẻ con dân tộc giờ biết múa hát cả bài tiếng Kinh, tiếng dân tộc và có em còn hát nhạc quốc tế. Bản làng định cư không chỉ mang lại chỗ ở ổn định cho người dân mà còn mở ra không gian phát triển, khởi đầu cho những ngày mới đang đổi thay từng ngày...
(Còn nữa)