Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, một lần nữa, vấn đề loại bỏ tư duy nhiệm kỳ lại được đặt lên bàn nghị sự khi các đại biểu Quốc hội thảo luận về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch.
Tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch là cách lập quy hoạch bị chi phối bởi lợi ích ngắn hạn, bởi ý chí của lãnh đạo trong một nhiệm kỳ nhất định, thay vì hướng tới mục tiêu dài hạn, bền vững.
Không ít quy hoạch có tầm nhìn chỉ vài năm, miễn sao công trình xây dựng thật hoành tráng, ghi dấu thành tích cho nhiệm kỳ, cho lãnh đạo của nhiệm kỳ đó. Những đồ án quy hoạch dạng này nhanh chóng bộc lộ sự lãng phí, khập khiễng trong tổng thể yêu cầu phát triển. Hệ lụy là công trình không đưa vào sử dụng được, hoặc sử dụng kém hiệu quả; quy hoạch treo…
Tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch là cách lập quy hoạch bị chi phối bởi lợi ích ngắn hạn, bởi ý chí của lãnh đạo trong một nhiệm kỳ nhất định, thay vì hướng tới mục tiêu dài hạn, bền vững.
Tư duy nhiệm kỳ còn phần nào thể hiện trong điều chỉnh quy hoạch. Thực tế tại một số khu đô thị lớn tại Hà Nội, ngay cả kiến trúc cũng bị điều chỉnh đến mức người lập đồ án quy hoạch “không còn nhận ra đứa con đẻ” do ý tưởng về một đô thị xanh, hài hòa, đồng bộ đã bị “băm nát” bởi sự điều chỉnh, xen cấy công trình.
Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch đang được Quốc hội xem xét có nội dung trọng tâm xuyên suốt là loại bỏ tư duy nhiệm kỳ, bảo đảm tính đồng bộ và ứng dụng khoa học-công nghệ để nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng tính minh bạch, quy định phân cấp rõ ràng được đề xuất...
Trước hết, phải cắt giảm thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, tạo điều kiện cho các địa phương “tự quyết định và chịu trách nhiệm”, đồng thời cần một cơ chế minh bạch, độc lập trong quá trình lập và thẩm định quy hoạch.
Một trong những giải pháp trọng tâm được các đại biểu Quốc hội đề xuất là lập đồng thời các cấp quy hoạch để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ. Quy hoạch cấp trên đóng vai trò định hướng, còn cấp dưới chi tiết hóa, tạo sự gắn kết chặt chẽ, tránh xung đột giữa quy hoạch ngành và địa phương. Cách làm này không chỉ giảm tình trạng manh mún, thiếu sự khớp nối của các đồ án, mà còn ngăn chặn tình trạng điều chỉnh tùy tiện.
Ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong lập quy hoạch cũng được các đại biểu ủng hộ, nhất là đối với các đô thị lớn, quy hoạch đô thị được xác định gắn với những mô hình như TOD (phát triển đô thị định hướng giao thông công cộng), năng lượng tái tạo, quản lý đô thị thông minh… Một hệ thống dữ liệu quy hoạch được số hóa là cơ sở khoa học, bảo đảm tính minh bạch trong việc ra quyết định của cơ quan lập, phê duyệt quy hoạch, thay vì chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan, quy hoạch theo kiểu “bốc thuốc”.
Hơn cả, để bỏ tư duy nhiệm kỳ thì điều kiện “đủ” là phải bảo đảm tính độc lập và khách quan trong quá trình thẩm định quy hoạch. Cần có quy định cụ thể về phản biện độc lập đối với các quy hoạch cấp quốc gia, vùng và địa phương.
Dự án sửa đổi Luật Quy hoạch lần này được xây dựng với yêu cầu cấp bách, khắc phục những vấn đề tồn tại. Đặc biệt, việc sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính và xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp, cũng như thực hiện chủ trương sáp nhập tỉnh, thành phố, càng cho thấy sự cấp thiết của việc điều chỉnh lại hệ thống quy hoạch, loại bỏ hoàn toàn tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch. Đây là một bước đi quan trọng, một trong những việc phải làm, để tạo ra “động năng mới, tiềm năng mới và không gian phát triển mới”.
Mục tiêu đặt ra hiện nay với các cơ quan hữu quan tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật để trình Quốc hội, bảo đảm mỗi điểm sửa đổi vừa có cơ sở pháp lý vững, vừa phản ánh được ý kiến thực tiễn, sẵn sàng cho giai đoạn Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 9.