Năm 1913, chính sách lương hưu toàn dân của Thụy Điển bắt đầu được thực hiện. Ở thời điểm đó, tỷ lệ nông dân Thụy Điển chiếm số lượng lớn trong khi chế độ lương hưu chỉ dành cho công nhân. Chính phủ thực hiện chế độ lương hưu toàn dân để giúp người nông dân được hưởng lương hưu, bảo đảm mức sống tối thiểu trong xã hội, phần lớn người dân khi ở tuổi 65 sẽ nhận được tiền hưu trí.
Năm 1935, Thụy Điển thay đổi chính sách là toàn dân được hưởng lương hưu, kể cả những người giàu nhất. Năm 1948, tất cả mọi người đều được hưởng cùng một mức như nhau. Năm 1999, Thụy Điển chuyển sang tính lương hưu dựa trên thu nhập cả đời (thay vì 15 năm cuối) và cho phép linh hoạt tuổi nghỉ hưu. Người dân làm việc lâu thêm thì mức lương hưu cao thêm, nghỉ sớm thì lương hưu thấp, khắc phục đáng kể hành vi lạm dụng quỹ bảo hiểm hưu trí.
Chính phủ Thụy Điển cũng phải tăng tuổi nghỉ hưu cho người dân, không áp tuổi nghỉ hưu cố định, chỉ quy định sớm nhất 61 tuổi được rút lương hưu và muộn nhất 67 tuổi. Kết quả thống kê cho thấy, sau cải cách, tuổi nghỉ hưu trung bình tăng đáng kể vì người lao động nhận thấy nghỉ làm việc sớm thì thiệt thòi khi hưởng lương hưu. Nhìn chung, cải cách hưu trí Thụy Điển được coi là thành công trên nhiều mặt, vừa giải quyết được bài toán già hóa, vừa bảo đảm công bằng hơn. Những chính sách như lương hưu toàn dân khi ban hành sẽ tạo chuyển biến, tác động lớn trong xã hội, cho nên cần có lộ trình phù hợp. Thụy Điển phải mất 60-70 năm mới định hình được chính sách như hiện nay.
Ở nước ta hiện nay, số lượng người trong độ tuổi lao động không tham gia bảo hiểm xã hội chiếm tỷ lệ rất cao. Theo ông Nguyễn Khắc Toàn, Viện trưởng Viện Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), hiện cả nước có khoảng 19 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội, bằng 33% tổng số lao động; trong đó, nhóm lao động là cán bộ công chức, viên chức, người lao động ký hợp đồng lao động tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp đạt 2,8 triệu người; nhóm lao động là công nhân và người lao động trong doanh nghiệp đạt 12 triệu người; nhóm lao động tự do đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện đạt 1,7 triệu người; nhóm người cao tuổi có lương hưu là 2,5 triệu người. Như vậy, số người trong độ tuổi lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội chiếm số lượng lớn (67%).
Để khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2025 quy định rất rõ về cơ chế tham gia. Theo đó, Nhà nước hỗ trợ đối với hộ nghèo 50%, hộ cận nghèo 40%, đối tượng khác là 20% trên mức đóng hằng tháng. Mặc dù vậy, số người tham gia bảo hiểm tự nguyện vẫn còn ít (1,7 triệu người).
Việt Nam đang trong giai đoạn già hóa nhanh, dự báo đến năm 2038 sẽ bước vào thời kỳ dân số già. Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Lâm Văn Đoan, nước ta cần thực hiện việc cải cách hưu trí sớm. Việt Nam đã tăng dần tuổi nghỉ hưu theo lộ trình hợp lý với mô hình hưu trí đa tầng. Nhà nước cần khuyến khích lao động, mở rộng lực lượng đóng góp; đồng thời nghiên cứu chính sách hưu trí phù hợp cho người cao tuổi còn khỏe tiếp tục làm việc sau tuổi hưu hoặc làm việc bán thời gian để hưởng lương hưu cao hơn, không lãng phí nguồn lực xã hội.
Hiện tỷ lệ nghèo ở người già Việt Nam không có lương hưu khá cao, cần sớm có lộ trình mở rộng dần trợ cấp xã hội cho người cao tuổi phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng ngân sách nhà nước, đồng thời vẫn tăng đầu tư cho trẻ em (chống suy dinh dưỡng, xóa chênh lệch tiếp cận giáo dục giữa nông thôn-đô thị-vùng sâu vùng xa). Một hệ thống cân đối sẽ tạo đoàn kết giữa các thế hệ và sự đồng thuận xã hội. Già hóa dân số cũng là một cơ hội để cải cách hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao trùm, bền vững hơn.
Theo Nghị định 76/2024/ NĐ-CP ngày 25/6/2024 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội đã điều chỉnh mức chuẩn trợ giúp xã hội tăng từ 360.000 đồng/người/tháng lên 500.000 đồng/người/tháng. Chính sách này nhằm mục đích hỗ trợ một phần chi phí cuộc sống cho những người yếu thế (người hơn 80 tuổi không có lương hưu, người khuyết tật nặng, hộ nghèo có trẻ em đặc biệt khó khăn...). Tuy nhiên, mức chuẩn mới bằng 33,33% chuẩn nghèo thu nhập khu vực nông thôn, bằng 25% chuẩn nghèo khu vực thành thị và phạm vi, mức trợ cấp còn rất hạn chế, mới khoanh vào một số nhóm yếu thế trong xã hội.
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hiền cho rằng, việc thực hiện chính sách hưu trí toàn dân sẽ giúp giảm gánh nặng chăm sóc cho người già; tạo điều kiện để những người trong độ tuổi lao động có điều kiện tham gia thị trường lao động tốt hơn; tạo ra nhiều của cải cho xã hội và giúp kinh tế phát triển.
Theo bà Hoàng Thị Lề, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, để thực hiện tốt chính sách hưu trí toàn dân cần bảo đảm tốt nguồn lực tài chính. Nguồn lực ấy dựa vào quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động; ngân sách hỗ trợ từ việc tăng các nguồn thu thuế thu nhập cá nhân, doanh nghiệp, thuế VAT, đặc biệt là thu thuế đối với các hộ gia đình kinh doanh nhỏ lẻ, chưa đăng ký chính thức…
Hướng đến chính sách hưu trí toàn dân sẽ giải quyết tốt các vấn đề về an sinh xã hội, là chỗ dựa an toàn cho người lao động khi về già. Tuy nhiên, để chính sách này sớm trở thành hiện thực rất cần sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng và sự tham gia nhiệt tình của người lao động và toàn xã hội.