Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Đình Tùng, Giám đốc Bệnh viện đa khoa Đức Giang cho biết, lễ ký kết là dấu mốc quan trọng trong chiến lược hợp tác quốc tế của bệnh viện.
Biên bản ghi nhớ giữa các bên nhằm thiết lập khuôn khổ hợp tác dựa trên thế mạnh, sự tự nguyện đóng góp của mỗi tổ chức và tầm nhìn chung về cải thiện sức khỏe-dinh dưỡng cho bà mẹ, trẻ em và cộng đồng.
Phó Cục trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em (Bộ Y tế) Nguyễn Văn Chi cho rằng, chỉ trong 2 tháng, Bệnh viện đa khoa Đức Giang đã kết nối với các tổ chức quốc tế uy tín để xây dựng ý tưởng “Mô hình kiểu mẫu về chăm sóc đái tháo đường thai kỳ toàn diện” để đề xuất lên Quỹ Đái tháo đường thế giới.
Bên cạnh đó, bệnh viện cũng hợp tác để xuất bản quốc tế các mô hình đã triển khai hiệu quả như chăm sóc tôn trọng sản phụ, thúc đẩy-bảo vệ nuôi con bằng sữa mẹ, chăm sóc sơ sinh thiết yếu sớm và ngân hàng sữa mẹ; đồng thời phát triển nghiên cứu và các dịch vụ khám chữa bệnh, phục hồi chức năng từ xa cho trẻ rối loạn tâm thần-hành vi và ứng dụng công nghệ số trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Phó Cục trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em khẳng định, với vai trò hỗ trợ chuyên môn cho năm bệnh viện tuyến cơ bản và 22 trạm y tế gần các khu công nghiệp lớn của Hà Nội, mô hình chăm sóc toàn diện này sẽ tăng cường phòng ngừa, phát hiện sớm, điều trị và theo dõi sau sinh cho phụ nữ mắc đái tháo đường thai kỳ tại Việt Nam, tập trung vào nhóm lao động nữ di cư, làm việc tại khu công nghiệp thông qua kết nối sản-nhi-nội tiết-dinh dưỡng, từ trạm y tế, phòng khám thai đến bệnh viện và theo dõi sau sinh qua khu công nghiệp và trường mầm non, bảo đảm sản phụ được theo dõi liên tục từ mang thai đến sau sinh thông qua triển khai ứng dụng "sổ mẹ và bé" đã được Bộ Y tế phê duyệt.
Do vậy, sáng kiến này sẽ tạo ra những thay đổi thực chất, góp phần xây dựng thế hệ bà mẹ-trẻ em Việt Nam khỏe mạnh, phát triển toàn diện và được bảo vệ trước gánh nặng bệnh không lây nhiễm trong tương lai.
Nhân dịp này, Bệnh viện đa khoa Đức Giang tổ chức buổi sinh hoạt khoa học với chủ đề “Dinh dưỡng phòng ngừa và điều trị đái tháo đường thai kỳ”.
Theo chia sẻ của các đại biểu, trong nhiều thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, nhất là trong lĩnh vực phòng, chống bệnh truyền nhiễm và suy dinh dưỡng.
Tuy nhiên, cùng với tốc độ phát triển kinh tế-xã hội và thay đổi lối sống, mô hình bệnh tật tại Việt Nam đang chuyển dịch mạnh. Gánh nặng bệnh không lây nhiễm ngày càng gia tăng, trong đó đái tháo đường thai kỳ là một trong những vấn đề đáng lo ngại.
Năm 2001, tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ tại Việt Nam chỉ ở mức 3%, thì đến năm 2024 con số này đã tăng lên 27%, tăng gấp 9 lần trong hơn hai thập kỷ. Sự gia tăng này liên quan đến tuổi mang thai trung bình cao hơn, tỷ lệ thừa cân-béo phì gia tăng và lối sống ít vận động hơn trước. Đây là thách thức lớn đối với hệ thống y tế, đặc biệt trong công tác dự phòng, phát hiện sớm và quản lý thai nghén.
Nếu không được phát hiện và kiểm soát kịp thời, bệnh có thể dẫn đến hàng loạt biến chứng nguy hiểm. Với mẹ, đó là tăng huyết áp, tiền sản giật, sinh non, đa ối, sẩy thai, thai lưu hoặc nhiễm khuẩn tiết niệu. Với thai nhi và trẻ sơ sinh, bệnh có thể gây dị tật bẩm sinh, vàng da sơ sinh, hạ đường huyết, tăng hồng cầu, béo phì, suy hô hấp hoặc thậm chí tử vong ngay sau sinh...
Không chỉ vậy, nhiều nghiên cứu cho thấy, phụ nữ mắc đái tháo đường thai kỳ thường khởi phát tiết sữa muộn và có lượng sữa ít hơn; trẻ sinh ra bởi các bà mẹ này cũng có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn bình thường, đòi hỏi hỗ trợ đặc biệt để nuôi con bằng sữa mẹ thành công.