Tài sản vô hình ngày càng quan trọng
Tài sản vô hình không có hình thái vật chất nhưng mang lại giá trị kinh tế, thường gắn với quyền sở hữu trí tuệ (bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu), lợi thế cạnh tranh, thương hiệu, phần mềm và dữ liệu số. Năm 2024, tài sản vô hình đóng góp khoảng 7% GDP của Việt Nam, chủ yếu thông qua các ngành công nghiệp sáng tạo như phần mềm, thương mại điện tử và fintech. Đây là con số tuy còn khiêm tốn so với các nền kinh tế phát triển, nhưng cho thấy xu hướng rõ rệt rằng tài sản vô hình đang trở thành động lực của đổi mới sáng tạo và tăng trưởng.
Nhiều doanh nghiệp trong nước đã chứng minh sức mạnh của tài sản vô hình. Viettel, FPT hay Tiki đã tận dụng dữ liệu khách hàng, phần mềm và thương hiệu để phát triển các nền tảng số. Những tài sản vô hình này không chỉ tạo ra giá trị kinh tế trực tiếp mà còn mở rộng cơ hội tiếp cận dịch vụ giáo dục trực tuyến, y tế số, dịch vụ tài chính cho hàng triệu người dân. Các nền tảng như MoMo, Viettel Money đã giúp người dân, kể cả ở vùng sâu vùng xa, tiếp cận dịch vụ tài chính số, góp phần giảm bất bình đẳng xã hội và cải thiện chất lượng sống.
Ở tầm quốc gia, tài sản vô hình giữ vai trò trung tâm trong quá trình chuyển đổi số, xây dựng kinh tế số và chính phủ số. Dữ liệu số và phần mềm chính là nền tảng cho các dịch vụ công trực tuyến như Cổng dịch vụ công quốc gia, giúp nâng cao hiệu quả quản lý và trải nghiệm của người dân.
Việt Nam có lợi thế dân số trẻ với hơn 50% dưới 35 tuổi, lực lượng lao động có trình độ ngày càng cao. Việc phát triển các tài sản vô hình như phần mềm, trí tuệ nhân tạo sẽ mở ra cơ hội việc làm lớn trong các ngành công nghiệp sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của lực lượng lao động trẻ, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao.
Nghịch lý trong bảo vệ tài sản trí tuệ
Chủ trì Diễn đàn “Thể chế hóa đổi mới sáng tạo-Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW” do TAT Law Firm, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Tạp chí Luật sư Việt Nam tổ chức, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam khẳng định, chủ đề của diễn đàn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đặt trọng tâm vào đổi mới sáng tạo. Nếu muốn nâng cấp nền kinh tế, hướng tới chất lượng cao, công nghệ cao thì vai trò của sở hữu trí tuệ ngày càng then chốt. Tuy nhiên, đáng tiếc là các diễn đàn chính sách hiện nay vẫn chưa tương xứng với tầm quan trọng đó, đặc biệt khi bàn tới những giải pháp cụ thể nhằm bảo vệ tài sản vô hình, tài sản trí tuệ.

Ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quyết định đối với môi trường đầu tư. Nhiều tập đoàn công nghệ thông tin, dược phẩm hàng đầu từng bày tỏ sẵn sàng đầu tư vào Việt Nam nếu yên tâm về quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng hợp các ý kiến tại Diễn đàn cho thấy, trước đây tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và lợi thế sẵn có, nhưng nay khi nhiều doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư cho sáng tạo sản phẩm thì ngay lập tức phải đối mặt với tình trạng bị làm giả, làm nhái, trong khi công cụ pháp lý để bảo vệ chưa thật sự hữu hiệu.
Một bất cập lớn khác, là khâu thực thi. Hệ thống tư pháp hiện giải quyết tranh chấp còn chậm, nhiều vụ việc kéo dài 2–3 năm mới có bản án, chưa kể thời gian thi hành án. Sự chậm trễ khiến việc bảo vệ quyền gần như bất khả thi. Vì thủ tục tranh chấp phiền hà nên nhiều doanh nghiệp phải chấp nhận đàm phán bất lợi để tránh kiện tụng kéo dài. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu thẩm phán và chuyên gia càng làm gia tăng trở ngại trong việc bảo vệ quyền, nhất là khi phải xác định bản quyền cho các nhãn hiệu do trí tuệ nhân tạo tạo ra và có hình thức “na ná” nhãn hiệu thật.
Ngoài ra, sở hữu trí tuệ vẫn chưa thực sự được coi là một loại tài sản đúng nghĩa trong nền kinh tế. Nhiều nhà đầu tư phản ánh, việc sử dụng tài sản trí tuệ để vay vốn gần như không khả thi, dù giá trị kinh tế của loại tài sản này là rất lớn. Ví dụ, một kịch bản phim với dự báo doanh thu 500–600 tỷ đồng hoàn toàn đủ cơ sở để ngân hàng xem xét cho vay, nhưng vì thiếu cơ chế pháp lý nên điều này chưa thực hiện được.
“Từ những bất cập trên, cần có cải cách mạnh mẽ. Hệ thống pháp luật phải linh hoạt, theo kịp thực tiễn; nguồn nhân lực xét xử và chuyên môn cần được tăng cường; cơ chế tín dụng dựa trên tài sản trí tuệ phải được hình thành. Có như vậy, sở hữu trí tuệ mới thực sự trở thành trụ cột cho đổi mới sáng tạo, bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp trong nước, đồng thời củng cố niềm tin của nhà đầu tư quốc tế. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, việc xây dựng khung khổ pháp luật cần bảo đảm sự cân bằng, vừa bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, vừa bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trong nước và người dân”, ông Đậu Anh Tuấn đề xuất.
Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy đổi mới sáng tạo
Theo luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm, Ủy viên thường vụ Trung ương Hội Kinh tế môi trường Việt Nam, để tài sản vô hình thực sự trở thành nguồn lực phát triển, cần hoàn thiện thể chế theo hướng loại tài sản này được định giá, giao dịch, thế chấp và ngân hàng chấp nhận. Quyền sở hữu trí tuệ phải được coi là tài sản tài chính có giá trị, có thể hạch toán, góp vốn, thế chấp. Đồng thời, cần hình thành thị trường định giá-giao dịch tài sản trí tuệ, gồm trung tâm định giá quốc gia, sàn giao dịch tài sản trí tuệ, quỹ đầu tư mạo hiểm dựa trên tài sản trí tuệ. Song song, phải kiện toàn hệ thống tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ, xây dựng cơ chế thi hành án minh bạch, đủ sức răn đe.

Nghị quyết 68/NQ-TW đã xác định tài sản vô hình là nguồn lực then chốt và yêu cầu thể chế hóa đầy đủ các quyền đối với loại tài sản này, từ quyền sở hữu, quyền định đoạt đến quyền tài chính hóa. Văn kiện nêu rõ: “Rà soát, hoàn thiện và thực thi hiệu quả pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền sở hữu trí tuệ và tài sản vô hình…”.
Đồng thời, Nghị quyết 57/NQ-TW khẳng định đổi mới sáng tạo là một trong ba trụ cột phát triển mới, đòi hỏi Nhà nước kiến tạo hệ sinh thái pháp lý để khuyến khích, bảo vệ đầu tư cho đổi mới sáng tạo. Đây là bước ngoặt mang tính tư duy, khi nghị quyết không chỉ đặt vấn đề bảo vệ tài sản trí tuệ mà còn nâng nó thành vấn đề chiến lược của nền kinh tế thị trường hiện đại. Quan điểm đúng đắn đó là yếu tố then chốt thúc đẩy sự phát triển của các loại tài sản vô hình.

Ông Lê Huy Anh, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, để phản ánh đầy đủ tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW và bắt kịp sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, chỉ sau hơn hai năm khi Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 có hiệu lực, Cục Sở hữu trí tuệ đã tiếp tục đề xuất sửa đổi, tập trung vào năm nhóm chính sách lớn: thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng thị trường và sàn giao dịch IP; đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý đơn; nâng cao năng lực bảo vệ quyền, tăng chế tài, kiện toàn thanh tra chuyên ngành; đáp ứng cam kết quốc tế; giải quyết các vấn đề mới như AI sáng tạo, bảo hộ đối tượng kỹ thuật số, mở rộng phạm vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp.