Làng Lô Lô Chải, Tuyên Quang. (Ảnh NGUYÊN-HÀO)
Làng Lô Lô Chải, Tuyên Quang. (Ảnh NGUYÊN-HÀO)

Giảm nghèo giúp người dân nâng cao năng lực, khơi dậy nội lực và lan tỏa giá trị bền vững trong cộng đồng

Thời gian qua, chính sách giảm nghèo bền vững đi đúng hướng không những đã giúp người dân thoát nghèo về thu nhập, mà còn giúp họ nâng cao năng lực, khơi dậy nội lực và lan tỏa giá trị bền vững trong cộng đồng.

Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc phỏng vấn Tiến sĩ Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) về công tác triển khai chính sách giảm nghèo bền vững trong những năm gần đây.

Gần 10.600 mô hình, dự án giảm nghèo

Phóng viên: Thưa Tiến sĩ Trần Công Thắng, ông có thể chia sẻ một số nhận định của mình về công tác triển khai chính sách giảm nghèo bền vững thời gian qua, đặc biệt là việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025? Ông đánh giá như thế nào về kết quả đã đạt được của Chương trình mục tiêu này đến thời điểm này?

phong-van-tien-si-tran-cong-thang-1.jpg
Tiến sĩ Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). (Ảnh PHƯƠNG NAM)

Tiến sĩ Trần Công Thắng: Theo tôi, trong thời gian qua, công tác giảm nghèo bền vững tiếp tục được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ nhiều chính sách, chương trình, dự án hướng tới mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Có thể nói, công tác xóa đói giảm nghèo của nước ta rất thành công, tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh chóng. Thế giới cũng công nhận đây là những thành tựu rất to lớn.

Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đây là một chương trình có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc, được thiết kế theo hướng đa chiều, bao trùm và bền vững hơn, tập trung vào phát triển sinh kế, nâng cao năng lực và tiếp cận dịch vụ cơ bản cho người nghèo, thay vì chỉ hỗ trợ thu nhập như trước.

1-6590.jpg
Cột cờ Lũng Cú, xã Lũng Cú, tỉnh Tuyên Quang. (Ảnh NGUYÊN-HÀO)

Các địa phương đã ban hành kế hoạch, phân bổ nguồn lực, kiện toàn bộ máy quản lý và đẩy mạnh công tác truyền thông, tuyên truyền chính sách đến người dân. Nhiều chính sách hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, tạo việc làm, tín dụng ưu đãi, nhà ở, y tế, giáo dục… được triển khai khá đồng bộ. Cơ chế phối hợp giữa các chương trình mục tiêu quốc gia (như xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025) được cải thiện, bước đầu phát huy hiệu quả tổng hợp.

Chương trình đã đạt và vượt các chỉ tiêu về giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm do Quốc hội và Chính phủ đề ra, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 9,35% năm 2022 xuống còn 4,06% năm 2024; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 4,03% năm 2022 xuống còn 1,93% năm 2024; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trung bình khoảng 4,3%/năm, từ 21,29% năm 2022 xuống còn 12,55% năm 2024.

Dự kiến năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc giảm còn khoảng 3%, vượt mục tiêu bình quân giảm 1-1,5%/năm mà Nghị quyết Quốc hội đề ra. Nhiều huyện, xã, thôn đặc biệt khó khăn đã thoát khỏi tình trạng nghèo đặc thù, cơ sở hạ tầng thiết yếu ở vùng sâu, vùng xa được cải thiện rõ rệt.

Mức sống, thu nhập, khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo được nâng lên; nhận thức về giảm nghèo bền vững có nhiều chuyển biến tích cực. Các mô hình giảm nghèo gắn với phát triển sản xuất, chương trình OCOP, chuyển đổi sinh kế theo hướng thích ứng biến đổi khí hậu được nhân rộng. Tới nay, Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã triển khai 10.587 mô hình, dự án giảm nghèo, thu hút 205.585 hộ tham gia (gồm các hộ nghèo, cận nghèo và mới thoát nghèo).

Tới nay, Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã triển khai 10.587 mô hình, dự án giảm nghèo, thu hút 205.585 hộ tham gia (gồm các hộ nghèo, cận nghèo và mới thoát nghèo).

Các mô hình này không chỉ tạo sinh kế bền vững, tăng thu nhập mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động tại các địa phương nghèo, từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất tập trung, gắn với chuỗi giá trị. Có 6.174 dự án hỗ trợ sản xuất nông nghiệp đã giúp 99.1594 hộ cải thiện phương thức sản xuất, áp dụng công nghệ cao, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Tuy nhiên, Chương trình vẫn đối mặt với một số khó khăn, thách thức, như: tỷ lệ hộ nghèo tại một số vùng vẫn còn cao. Nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo mới vẫn còn, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi và khi các hộ nghèo gặp phải những cú sốc trong cuộc sống. Nguồn lực đầu tư còn phân tán, chậm được phân bổ trong giai đoạn đầu (2021-2022). Một số địa phương còn lúng túng trong lồng ghép, phối hợp các nguồn vốn và chính sách. Công tác theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu quả giảm nghèo đa chiều chưa đồng đều.

Nhìn chung, có thể khẳng định rằng, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần củng cố an sinh xã hội, ổn định chính trị-xã hội và thúc đẩy phát triển bao trùm, dù vẫn cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường nguồn lực để bảo đảm tính bền vững trong giai đoạn tiếp theo (2026-2030).

Các mô hình giảm nghèo bền vững đã có nhiều đổi mới cả về tư duy và cách làm

Phóng viên: Vậy ông đánh giá như thế nào về những mô hình giảm nghèo bền vững triển khai trong thời gian qua?

Tiến sĩ Trần Công Thắng: Trong thời gian qua, có thể nói rằng, các mô hình giảm nghèo bền vững đã có nhiều đổi mới cả về tư duy và cách làm, chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp sang trao “cần câu” cho người dân, khuyến khích người nghèo chủ động vươn lên, gắn giảm nghèo với phát triển sản xuất, đào tạo nghề, chuyển đổi sinh kế và xây dựng nông thôn mới.

phong-van-tien-si-tran-cong-thang-2.jpg
Tiến sĩ Trần Công Thắng. (Ảnh PHƯƠNG NAM)

Tôi đánh giá cao tính đa dạng và linh hoạt của các mô hình được triển khai phù hợp với điều kiện từng vùng, từng nhóm đối tượng, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.

Các địa phương đã căn cứ vào điều kiện thực tế để có những mô hình giảm nghèo rất đa dạng, khai thác lợi thế bản địa, nguồn lực địa phương. Những mô hình ấy đã đi sâu vào giải quyết nguyên nhân của đói nghèo, gắn kết sản xuất với thị trường, xây dựng chuỗi giá trị, tăng cường sự tham gia của các hộ nghèo.

Các mô hình với các chính sách rất linh hoạt chứ không chỉ dừng lại ở việc trợ cấp, hỗ trợ sản xuất mà còn thông qua việc đào tạo, nâng cao năng lực, hộ trợ kết nối, xây dựng cộng đồng, cung cấp các chính sách hỗ trợ sản xuất, tín dụng, thị trường hiệu quả. Các chính sách cũng hướng theo sản xuất bền vững, giảm nghèo bền vững. Các hộ nghèo cũng được tổ chức lại, được hướng dẫn cùng nhau thoát nghèo và làm giầu.

Tôi đánh giá cao tính đa dạng và linh hoạt của các mô hình được triển khai phù hợp với điều kiện từng vùng, từng nhóm đối tượng, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.

Tiến sĩ Trần Công Thắng

Các dự án trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cũng rất thực tế và đầy đủ, gắn với nhu cầu thiết thực của các hộ nghèo và địa phương. Xây dựng cơ chế để các địa phương chủ động trong quá trình thiết kế, gắn với điều kiện cụ thể của từng địa phương nên các dự án có tính thiết thực, hiệu quả rõ rệt.

duyen-hai-8-7-9880.jpg
Người dân ở Quảng Trị chăm sóc vườn nấm linh chi đỏ. (Ảnh HIẾU MINH)

Một số địa phương mở dạy nghề cho người nghèo và lao động thu nhập thấp. Sau khóa học, phần lớn người học được giới thiệu việc làm hoặc tự khởi nghiệp tại địa phương, giúp họ có thu nhập ổn định và từng bước thoát nghèo. Nhiều địa phương định hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên cơ sở khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế địa phương, vài năm trở lại đây đời sống bà con và các hộ nghèo nâng cao rõ rệt, nhất là các tỉnh miền núi

Nhìn chung, điểm đáng ghi nhận nhất là các mô hình giảm nghèo hiện nay không chỉ giúp người dân tăng thu nhập, mà còn thay đổi nhận thức, nâng cao năng lực, khơi dậy tinh thần tự lực vươn lên. Những mô hình, câu chuyện này minh chứng rằng khi chính sách đúng hướng, có sự hỗ trợ của Nhà nước, đồng hành của doanh nghiệp và tinh thần nỗ lực vươn lên của người dân, thì giảm nghèo không chỉ là thoát nghèo về thu nhập, mà là nâng cao năng lực, khơi dậy nội lực và lan tỏa giá trị bền vững trong cộng đồng.

Phóng viên: Theo ông, trong bối cảnh triển khai chính quyền địa phương 2 cấp hiện nay, đã xuất hiện những khó khăn, thách thức nào trong quá trình triển khai chính sách giảm nghèo bền vững?

Tiến sĩ Trần Công Thắng: Việc triển khai chính quyền địa phương 2 cấp giúp gắn kết lãnh đạo với người dân, giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý, hiệu quả đầu tư phát triển của các chương trình trong đó có chương trình giảm nghèo cũng như các chương trình khác.

Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu này cũng có một số khó khăn, thách thức. Về năng lực thực thi ở cấp cơ sở, tại nhiều xã, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo kiêm nhiệm nhiều việc, năng lực lập kế hoạch, theo dõi và báo cáo chưa đồng đều. Một số cán bộ chuyển công tác, cán bộ mới cần có thời gian. Nhiều địa phương có địa bàn rộng, dân cư thưa, điều kiện giao thông khó khăn, thiên tai và biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khiến chi phí thực hiện chương trình cao.

Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp, phân cấp và năng lực tổ chức thực hiện ở cơ sở cần phải hoàn thiện trong điều kiện tình hình mới. Đây là những vấn đề cần được quan tâm tháo gỡ trong thời gian tới, để chính sách giảm nghèo thực sự đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ!

Xem thêm