Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo nhiệm kỳ 2020-2025 tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đã chỉ ra bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức của tình hình trong nước và thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhiệm kỳ vừa qua cũng có sự thuận lợi khi công cuộc đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đây là tiền đề quan trọng và điều kiện thuận lợi để thực hiện đổi mới và phát triển giáo dục và đào tạo.
Ngay sau Đại hội nhiệm kỳ 2020-2025, Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kịp thời tổ chức học tập, quán triệt và nghiêm túc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp trên và Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo đến cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ; ban hành Chương trình hành động và tích cực triển khai thực hiện các nghị quyết phù hợp với thực tiễn của Đảng bộ. Hằng năm, Đảng ủy Bộ đều ban hành chương trình, kế hoạch công tác thực hiện các nghị quyết của Trung ương; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
Đặc biệt, trong giai đoạn 2020-2025, Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thành công tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW nhằm đánh giá một cách khách quan các thành tựu, kết quả đạt được, những vấn đề tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và những vấn đề mới đặt ra từ yêu cầu của đất nước, các xu thế, mô hình phát triển của thế giới để đề xuất Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW.
Nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo lãnh đạo toàn ngành đạt được những kết quả nổi bật về giáo dục và đào tạo. Cụ thể như sau:
Chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện đã được ban hành tương đối toàn diện, bao quát; thể chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho đổi mới giáo dục và đào tạo; công tác quản lý giáo dục và quản trị nhà trường có chuyển biến tích cực theo hướng tăng cường phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình.
Giáo dục mầm non đã có bước phát triển khá toàn diện tạo nền tảng cơ bản để phát triển. Quy mô được mở rộng, mạng lưới cơ sở giáo dục được quan tâm phát triển để đáp ứng nhu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Giáo dục mầm non công lập được sắp xếp phù hợp với tình hình địa phương, giáo dục mầm non ngoài công lập được mở rộng, khuyến khích phát triển. Các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục mầm non được quy chuẩn và được đầu tư phát triển.
Chương trình giáo dục mầm non được điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tiễn và tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục mầm non chủ động, linh hoạt tổ chức hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp với nhu cầu, khả năng, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, điều kiện của nhà trường, văn hoá địa phương; trẻ được quan tâm phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp 1, đặt nền tảng cho việc học tập suốt đời.
Đối với giáo dục phổ thông, chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng và triển khai theo hướng chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học; triển khai một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa và xã hội hóa trong biên soạn, phát hành sách giáo khoa bước đầu chuyển biến tích cực, tạo nên sự chủ động, sáng tạo cho giáo viên, học sinh và nhà trường; chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn ngày càng nâng cao, được thế giới ghi nhận. 100% tỉnh, thành phố trong cả nước duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở.
Theo kết quả đánh giá PISA năm 2022, Việt Nam được xếp thứ 34/81 quốc gia, trong đó điểm trung bình ở cả 3 môn đều ở mức xấp xỉ trung bình khối OECD. Năm 2024, tất cả 38 học sinh Việt Nam tham dự các kỳ Olympic khu vực và quốc tế đều đạt giải, với tổng cộng 12 Huy chương Vàng, 15 Huy chương Bạc, 10 Huy chương Đồng và 1 Bằng khen. Việt Nam đứng thứ 33 thế giới ở môn Toán học (IMO), thứ 3 ở môn Sinh học (IBO), thứ 4 ở môn Tin học (IOI) và thứ 5 ở môn Vật lý (IPhO).
Giáo dục đại học đã có chuyển biến mạnh mẽ cả về chất lượng, hiệu quả và mức độ tiếp cận của người dân, góp phần quan trọng cho việc nâng cao trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và đào tạo nhân tài cho đất nước. Năm 2024, số tuyển mới tất cả hình thức đào tạo đạt xấp xỉ 700.000 sinh viên đại học (tăng khoảng 14% so với 2023), 220.000 sinh viên cao đẳng (tăng 40% so với 2023), 310.000 học sinh trung cấp (tăng 25% so với 2023).
Các chỉ số về tỷ lệ có việc làm và mức thu nhập của người lao động có bằng cấp và chứng chỉ được cải thiện thể hiện mức độ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động. Năm 2025, có 5 cơ sở giáo dục đại học vào xếp hạng đại học châu Á của QS (Quacquarelli Symonds) và THE (Times Higher Education).
Theo cơ sở dữ liệu của Elsevier, tổng số công bố khoa học của Việt Nam trong danh mục Scopus năm 2024 là 22.504 bài, tăng 16% so với 2023 và bằng 5,55 tổng số bài của 2014; trong đó số bài đứng tên các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam chiếm xấp xỉ 85%.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học từng bước được củng cố và hoàn thiện, trong 5 năm trở lại đây đã cơ bản ổn định về quy mô và cơ cấu. Chính sách, pháp luật về tự chủ đại học đã tạo ra những đổi mới căn bản và toàn diện về phương thức quản lý nhà nước, tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học, phát huy dân chủ cơ sở, tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội.
Các điều kiện bảo đảm và nâng cao chất lượng giáo dục đại học được đầu tư phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại và hội nhập quốc tế. Các chương trình đào tạo được đổi mới, phát triển đa dạng theo khung trình độ quốc gia và hội nhập quốc tế. Cơ sở vật chất, công nghệ và dịch vụ hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu được tăng cường. Công tác bảo đảm chất lượng và kiểm định được chú trọng, số cơ sở giáo dục đại học cũng như số chương trình đào tạo được kiểm định trong nước và quốc tế tăng nhanh.
Chương trình giáo dục thường xuyên đã được đa dạng hóa, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân, nâng cao chất lượng các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu phát triển và chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời trong cả nước được đẩy mạnh. Đến nay, quy mô và mạng lưới các cơ sở giáo dục thường xuyên tại các địa phương về cơ bản được duy trì ổn định đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời của người dân.
Công tác giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên được triển khai đồng bộ, hiệu quả, góp phần hình thành thế hệ thanh niên có lý tưởng, kỷ luật và văn hóa. Môi trường học đường ngày càng an toàn, thân thiện thông qua việc đẩy mạnh phòng chống tệ nạn và tư vấn tâm lý học đường. Chính sách an sinh, đặc biệt là tín dụng học sinh, sinh viên được thực hiện kịp thời, thúc đẩy công bằng trong tiếp cận giáo dục. Hoạt động tư vấn, hỗ trợ học sinh, sinh viên được tăng cường, nhất là trong lĩnh vực khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.
Sức khỏe thể chất của học sinh, sinh viên được chú trọng thông qua các chương trình y tế, dinh dưỡng và thể thao học đường. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 rất phức tạp, kéo dài, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục phối hợp chặt chẽ ngành y tế theo dõi tình hình dịch bệnh, chỉ đạo thực hiện hiệu quả Kế hoạch tổng thể của ngành giáo dục thích ứng với tình hình dịch Covid-19; chủ động xây dựng phương án phòng ngừa và sẵn sàng ứng phó linh hoạt, hiệu quả đối với các tình huống có thể xảy ra; phối hợp chặt chẽ ngành y tế tổ chức chiến dịch tiêm vaccine phòng dịch cho người học theo hướng dẫn của Bộ Y tế; hoàn thành cơ bản việc tiêm vaccine phòng Covid-19 cho trẻ em, học sinh theo chỉ tiêu của Thủ tướng Chính phủ.
Giáo dục quốc phòng, an ninh ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức trách nhiệm của công dân đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cùng với các môn học và hoạt động giáo dục khác góp phần hình thành cho học sinh, sinh viên các phẩm chất, năng lực chung; giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, xây dựng lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp được quan tâm phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Năm học 2024-2025, cấp học mầm non, phổ thông cả nước có 1.260.306 giáo viên (tăng 147.329 giáo viên so với năm học 2013-2014) và 90.034 giảng viên đại học (tăng 24.828 giảng viên so với năm học 2013-2014). Tỷ lệ đạt chuẩn được đào tạo của giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non là 90,4%, tiểu học là 91,7%, trung học cơ sở là 94,6%, trung học phổ thông là 99,9%; tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt 36,2% (tăng 21,37% so với năm học 2013-2014).
Nhiều quy hoạch, kế hoạch, đề án đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học với lộ trình dài hạn đã được xây dựng và triển khai thực hiện nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có chất lượng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng các yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Các văn bản hướng dẫn về vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập, các cơ sở giáo dục phổ thông và các trường chuyên biệt công lập đã được ban hành.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề xuất cấp có thẩm quyền bổ sung 65.980 biên chế giáo viên giai đoạn 2022-2026. Từ năm học 2022-2023 đến nay, các địa phương đã tuyển dụng được hơn 62.000 giáo viên trong tổng số 65.980 biên chế được giao, cơ bản khắc phục tình trạng thiếu giáo viên đã diễn ra nhiều năm.
Luật Nhà giáo đã được ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý quan trọng nhằm khẳng định vai trò, vị thế, trách nhiệm của nhà giáo; chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, có chính sách đãi ngộ, tôn vinh, bảo vệ hoạt động nghề nghiệp phù hợp để phát triển đội ngũ nhà giáo. Việc sửa đổi Luật Giáo dục với những quy định về tiêu chuẩn, chính sách đối với nhân viên trường học là những điểm quan trọng nhằm giải quyết những bất cập, tâm tư của đội ngũ này, giúp họ yên tâm, gắn bó với nghề.
Về chuyển đổi số, nhiều chính sách và quy định đã được ban hành kịp thời, tạo hành lang pháp lý triển khai chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo. Toàn ngành giáo dục tiếp tục đẩy mạnh việc số hóa, xây dựng Cơ sở dữ liệu ngành giáo dục, kết nối Cơ sở dữ liệu ngành giáo dục với Cơ sở dữ liệu quốc gia. Đã số hóa dữ liệu của gần 22.000 cơ sở giáo dục và nhóm trẻ độc lập; gần 500.000 hồ sơ giáo viên và hơn 5 triệu hồ sơ trẻ em; cơ sở dữ liệu giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, đã số hóa dữ liệu của hơn 28.000 cơ sở giáo dục; hơn 800.000 hồ sơ giáo viên và hơn 18 triệu hồ sơ học sinh; cơ sở dữ liệu về giáo dục đại học (HEMIS) với 470 cơ sở đào tạo đại học, hơn 25.000 chương trình đào tạo, hơn 100.000 hồ sơ cán bộ, gần 3 triệu hồ sơ người học.
Việc đẩy mạnh triển khai các ứng dụng trên Cơ sở dữ liệu ngành giáo dục (trong đó có việc thanh toán 100% lệ phí xét tuyển đại học trực tuyến, thanh toán học phí không dùng tiền mặt) phục vụ học sinh, giáo viên và các cơ sở giáo dục đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng xã hội số trong Chương trình Chuyển đổi số quốc gia của Chính phủ.
Hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng và nâng cao; nước ta đã hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với hơn 100 quốc gia, vùng lãnh thổ và nhiều tổ chức quốc tế có uy tín; ký kết và triển khai thực hiện có hiệu quả hàng trăm điều ước và thỏa thuận quốc tế, trong đó có những thỏa thuận khung pháp lý để thúc đẩy hợp tác về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, về công nhận văn bằng hoặc chương trình học bổng, trao đổi học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên, trao đổi chuyên gia hợp tác, đặc biệt với các nước đối tác lớn, chiến lược, truyền thống, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên bang Nga, Trung Quốc, Mỹ, Australia, Anh, Đức, Pháp, Lào, Campuchia, Singapore,...Tiếp tục thực hiện đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, nhất là đào tạo giảng viên trình độ tiến sĩ và chuyên gia các ngành kỹ thuật, công nghệ mũi nhọn; đẩy mạnh việc thu hút sinh viên quốc tế đến học tập tại Việt Nam.
Công tác thanh tra, kiểm tra được đẩy mạnh, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động giáo dục. Hệ thống các văn bản hướng dẫn thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực giáo dục được ban hành kịp thời. Nội dung thanh tra, kiểm tra tập trung vào các vấn đề xã hội được dư luận quan tâm. Việc phối hợp giữa thanh tra giáo dục với thanh tra nhà nước ở địa phương từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về giáo dục.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo nhiệm kỳ 2020-2025 tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 khẳng định, cùng với truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, quý trọng hiền tài của dân tộc; sự quan tâm sâu sắc, toàn diện của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự phối hợp của các bộ, ngành, địa phương; sự chung tay của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục là nền tảng và động lực to lớn cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo trong công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị và đạt được những kết quả tích cực.