Tọa đàm khoa học về công nghệ đường sắt cao tốc Shinkansen Nhật Bản và những kinh nghiệm đối với doanh nghiệp cơ khí-xây dựng Việt Nam.
Tọa đàm khoa học về công nghệ đường sắt cao tốc Shinkansen Nhật Bản và những kinh nghiệm đối với doanh nghiệp cơ khí-xây dựng Việt Nam.

Công nghệ đường sắt cao tốc Shinkansen Nhật Bản và kinh nghiệm cho Việt Nam

Theo Chiến lược và quy hoạch phát triển công nghiệp đường sắt đã được Nhà nước ban hành, tổng mức đầu tư cho các dự án đường sắt theo tính toán lên tới gần 300 tỷ USD. Đây là cơ hội rất lớn, tiềm năng thị trường rộng mở cho các doanh nghiệp cơ khí trong nước.

Để đón bắt cơ hội này, việc hợp tác của các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác nước ngoài sở hữu kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trên tinh thần đó, sáng 13/10, Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI) đã phối hợp Học viện Kỹ thuật quân sự, Tổng Công ty Cơ điện xây dựng (Agrimeco) và Tập đoàn JFE (Nhật Bản) tổ chức tọa đàm khoa học “Công nghệ đường sắt cao tốc của JFE, Nhật Bản và kinh nghiệm cho Việt Nam”.

Ngoài giới thiệu tổng quan về JFE và các kinh nghiệm liên quan đường sắt cao tốc Shinkansen, các diễn giả tham gia tọa đàm cũng đề cập một số công nghệ then chốt như kết cấu cầu, đường ray, hầm; giải pháp kết cấu ngầm và móng cọc ống thép (Tsubasa), hệ tường chắn đất J-Do-Mer; các vật liệu tấm dày đặc thù như thép chịu thời tiết, thép Expal giúp kéo dài tuổi thọ lớp phủ, thép AFD chống mỏi; cùng các thiết bị và kết cấu phụ trợ như khối phân cách, tường cách âm...

Đây là những thành tố quan trọng trong hệ sinh thái công nghệ đường sắt hiện đại, là “xương sống”, góp phần giúp các doanh nghiệp cơ khí-xây dựng nâng cao chất lượng, tối ưu vòng đời công trình, giảm chi phí bảo trì và tăng độ an toàn, tin cậy của hệ thống.

ndo_br_gen-h-ts-ng-chi-sang-3844.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Chỉ Sáng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI).

Phát biểu ý kiến khai mạc tọa đàm, Tiến sĩ Nguyễn Chỉ Sáng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, nhấn mạnh: Các chiến lược và quy hoạch phát triển đường sắt được xem là một trong những chương trình đầu tư hạ tầng quy mô lớn nhất từ trước đến nay, mở ra cơ hội chưa từng có cho ngành cơ khí và xây dựng Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đất nước đang thúc đẩy hiện đại hóa hạ tầng giao thông, hướng tới phát triển xanh và bền vững.

“Phát triển đường sắt không chỉ đơn thuần là kế hoạch đầu tư vào một lĩnh vực hạ tầng, mà còn là cơ hội lịch sử, mở ra thị trường khổng lồ cho doanh nghiệp cơ khí, xây dựng Việt Nam, từ thiết kế, vật liệu, kết cấu, thiết bị đến thi công, lắp đặt và bảo trì để Việt Nam nâng tầm năng lực công nghiệp chế tạo, từng bước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Tuy nhiên, cơ hội lớn luôn đi kèm yêu cầu rất cao về tiến độ, tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn, chất lượng và tính bền vững; do đó, hợp tác sâu rộng với các đối tác quốc tế có năng lực hàng đầu, đồng thời phát huy nội lực doanh nghiệp Việt để tham gia ngày càng sâu vào chuỗi cung ứng là con đường tất yếu”, Tiến sĩ Nguyễn Chỉ Sáng nêu rõ.

dstdc2-9487.jpg
Phối cảnh dự án đường sắt tốc độ cao.

Việt Nam đang nghiên cứu tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam với chiều dài khoảng 1.540km, kết nối Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tốc độ thiết kế khoảng 350km/giờ. Khi hoàn thiện, dự án được kỳ vọng sẽ rút ngắn thời gian di chuyển giữa hai đầu đất nước xuống chỉ còn khoảng 5,5-6 giờ, giúp giảm tải cho hàng không và đường bộ, đồng thời mở ra động lực phát triển kinh tế-xã hội mạnh mẽ cho các địa phương dọc tuyến. Việc đi qua nhiều vùng địa hình khác nhau, từ các đô thị lớn, vùng đồng bằng, sông ngòi dày đặc đến vùng đồi núi, cao nguyên,… đặt ra cho dự án các yêu cầu kỹ thuật phức tạp khác nhau, từ giải pháp cầu cạn, đường hầm đến kết cấu chịu lực và vật liệu nền móng,...

Theo đánh giá của các chuyên gia, đầu tư cho đường sắt là đầu tư cho tương lai kết nối, cho năng suất nền kinh tế và an toàn của người dân. Thành công của các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị sẽ không chỉ đơn thuần ở chỗ có những đoàn tàu chạy nhanh hơn, mà còn nâng tầm năng lực nội sinh của nền công nghiệp chế tạo Việt Nam lên một nấc thang mới: làm chủ vật liệu, làm chủ công nghệ, làm chủ quản trị chất lượng và bảo trì. Đó chính là giá trị lâu dài mà các doanh nghiệp cơ khí-xây dựng trong nước cùng các đối tác hướng tới.

Tại tọa đàm, ông Kosuke Gotoh, đại diện Công ty JFE Steel Việt Nam đã giới thiệu tổng quan về hệ thống Shinkansen, biểu tượng công nghệ đường sắt cao tốc của Nhật Bản. Hệ thống Shinkansen là một trong những công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt và độ chính xác cao nhất thế giới. Ngay từ khi thiết kế, toàn bộ tuyến đều được bố trí theo dạng giao cắt khác mức, triệt tiêu toàn bộ nguy cơ xung đột với đường bộ. Các yếu tố hình học của tuyến như độ cong, độ nghiêng và độ dốc được kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm tàu có thể chạy ổn định ở tốc độ 300-350km/giờ.

Đồng thời, mọi kết cấu từ nền, cầu, hầm, dầm đỡ đến đường ray đều phải bảo đảm độ biến dạng gần như bằng 0, giúp hành trình êm ái và giảm mỏi cho kết cấu; các cấu kiện phải chịu được tải trọng động lớn, có khả năng chống rung, chống mỏi và kháng chấn, giúp tuổi thọ công trình dài hạn. Toàn bộ hạ tầng của Shinkansen, từ cầu, hầm đến nhà ga, đều được xếp vào nhóm công trình hạ tầng có cấp độ quan trọng cao nhất.

ndo_br_gen-h-z7110707328232-69630dfb863d690d1247f7040d8eb2fd-2236.jpg
Ông Kosuke Gotoh, đại diện Công ty JFE Steel Việt Nam.

Việc kiểm định vật liệu, giám sát thi công và bảo trì được thực hiện theo chu trình nghiêm ngặt, với sự hỗ trợ của hệ thống điều khiển và giám sát tự động hiện đại. Mỗi đoàn tàu, mỗi nhịp cầu, mỗi đoạn ray đều được theo dõi và đánh giá theo thời gian thực, giúp hệ thống vận hành an toàn tuyệt đối trong hơn 50 năm qua.

“Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng mô hình quản lý và kỹ thuật tiên tiến của Nhật Bản, kết hợp điều kiện thực tế trong nước để hình thành tiêu chuẩn riêng cho dự án đường sắt tốc độ cao. Đối với dự án này, Tập đoàn JFE mong muốn hợp tác sâu hơn với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam trong việc cung ứng vật liệu, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực”, ông Kosuke Gotoh nêu rõ.

Để nghiên cứu, triển khai hiệu quả dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam, đại diện VAMI đã đề xuất 3 định hướng hợp tác cụ thể. Theo đó, JFE cùng các đối tác phối hợp các viện, trường, doanh nghiệp trong nước xây dựng bộ thiết kế mẫu cho một số hạng mục then chốt như: kết cấu cầu thép, móng cọc ống thép, tường chắn đất, tường cách âm,… phù hợp điều kiện nền địa chất, khí hậu Việt Nam, bảo đảm tương thích hệ tiêu chuẩn hiện hành, đồng thời chuẩn bị sẵn giải pháp để rút ngắn thời gian phê duyệt, triển khai.

Thứ hai, khuyến khích hình thức chuyển giao công nghệ, huấn luyện quy trình và chứng nhận chất lượng nhằm giúp doanh nghiệp cơ khí Việt Nam có thể gia công, cán, hàn, xử lý bề mặt các chủng loại thép đặc thù (thép chịu thời tiết, Expal, AFD…), tiến tới hình thành các “hub” (trung tâm) cung ứng khu vực đáp ứng yêu cầu dự án đường sắt cả về chất lượng lẫn sản lượng.

Thứ ba, tổ chức các gói thí điểm theo mô hình đồng thiết kế-đồng thi công (co-engineering/co-construction), kèm chương trình đào tạo tại chỗ cho đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên Việt Nam; đồng thời xây dựng quy trình bảo trì dựa trên dữ liệu (condition-based) các hạng mục cầu, hầm, đường ray và kết cấu phụ trợ, để bảo đảm hiệu suất vận hành lâu dài.

ndo_br_gen-h-z7110701771640-fc4a6ec81adc6a085f7b48043adf51ef-6867.jpg
Việc hợp tác sâu rộng với các đối tác quốc tế có năng lực hàng đầu, đồng thời phát huy nội lực doanh nghiệp Việt để tham gia ngày càng sâu vào chuỗi cung ứng là con đường tất yếu giúp triển khai thành công các dự án đường sắt.

Song song với 3 định hướng trên, các doanh nghiệp cơ khí-xây dựng cũng đề xuất các đối tác một số hoạt động hỗ trợ như chương trình chứng nhận tay nghề thợ hàn/kỹ thuật viên theo chuẩn dự án; đào tạo quản lý chất lượng theo vòng đời (LCC) và thiết lập nhóm công tác chung để rà soát các vướng mắc kỹ thuật-pháp lý-thủ tục trong quá trình chuẩn bị đầu tư và triển khai.

Hiệp hội VAMI sẽ đảm nhiệm vai trò điều phối, kết nối nguồn lực doanh nghiệp hội viên trên cả nước, từ cơ khí nặng, kết cấu thép, gia công chính xác đến vật liệu, phủ bề mặt, thiết bị điện, tự động hóa,… để hình thành các liên danh đủ năng lực tham gia dự án với yêu cầu cao.

Xem thêm