Việc sáp nhập đã hình thành những “siêu đô thị” với quy mô kinh tế, dân số và không gian phát triển vượt trội. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Tây Ninh mới đang định hình chiến lược phát triển, tận dụng cộng hưởng nguồn lực và hạ tầng liên vùng để tạo sức bật mới.
Ba địa phương hợp nhất đều ghi nhận bước nhảy vọt về quy mô kinh tế. GRDP của Thành phố Hồ Chí Minh năm 2025 ước đạt 3,03 triệu tỷ đồng, tương đương 123 tỷ USD, chiếm 23,5% GDP cả nước. Đây là “siêu đô thị” đầu tiên của Việt Nam, với cấu trúc kinh tế đa trung tâm với các thế mạnh về tài chính - công nghệ, cảng biển và du lịch.
Đồng Nai có diện tích hơn 12.700 km², số dân hơn 4,4 triệu người, là trung tâm công nghiệp - logistics với lợi thế có nhiều khu công nghiệp lớn như Nhơn Trạch, Amata, Giang Điền, sân bay quốc tế Long Thành, hành lang kinh tế xuyên Á, địa phương này được kỳ vọng trở thành đầu mối kết nối sản xuất và xuất khẩu hàng hóa trọng điểm.
Tây Ninh có diện tích hơn 8.500 km², số dân gần 3,3 triệu người, là cửa ngõ phía tây vùng kinh tế trọng điểm phía nam, giữ vai trò trung tâm thương mại biên giới và phát triển năng lượng tái tạo.
Ba địa phương, ba “siêu đô thị” trong vùng Đông Nam Bộ không chỉ mở rộng không gian mà còn tạo quy mô tăng trưởng mới. Những dự án đô thị, công nghiệp, logistics có điều kiện phát triển bài bản nhờ quỹ đất rộng, hạ tầng kết nối đồng bộ.
Hạ tầng liên vùng được xem là trụ cột quyết định sự phát triển của cả vùng Đông Nam Bộ. Thành phố Hồ Chí Minh hưởng lợi từ các tuyến vành đai 3, 4, cao tốc Biên Hòa-Vũng Tàu, Dầu Giây-Liên Khương và tuyến đường sắt nhẹ Thủ Thiêm-Long Thành. Đồng Nai gắn kết chặt giữa sân bay Long Thành và các khu công nghiệp Bình Phước với hệ thống cảng biển Bà Rịa -Vũng Tàu. Tây Ninh tận dụng hành lang kinh tế xuyên Á, cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài - Phnom Penh để đẩy mạnh hoạt động logistics và thương mại biên giới.
Một gam màu sáng trong phát triển kinh tế vùng Đông Nam Bộ nữa là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang khởi sắc rõ rệt. Bảy tháng đầu năm 2025, Thành phố Hồ Chí Minh thu hút 6,2 tỷ USD, tăng gần 46% so cùng kỳ, trong đó lĩnh vực công nghệ cao chiếm hơn 1 tỷ USD; Đồng Nai thu hút 1,76 tỷ USD; Tây Ninh đạt hơn 1,2 tỷ USD, nằm trong nhóm 10 địa phương dẫn đầu cả nước.
Thành tựu và lợi thế nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Vùng kinh tế Đông Nam Bộ đang đối mặt với việc phát triển không đồng đều. Có vùng thì tập trung vào đô thị - công nghiệp, trong khi vùng khác vẫn thiên về nông nghiệp. Nếu không có chiến lược phân bổ hợp lý, khoảng cách phát triển nội vùng sẽ gia tăng. Ngoài ra, còn có sự khác biệt về trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế giữa các địa phương. Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu kinh tế, có trình độ quản trị, hạ tầng và nguồn nhân lực vượt trội, trong khi Tây Ninh, Đồng Nai nhiều nơi vẫn đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp hoặc công nghiệp gia công.
Bên cạnh đó, sự chồng chéo trong quy hoạch và thể chế quản lý cũng là trở ngại. Mỗi địa phương trước đây có kế hoạch phát triển riêng, cơ chế thu - chi, chính sách đầu tư và ưu đãi khác nhau. Khi hợp nhất, việc thống nhất hệ thống quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên, thuế, cũng như điều chỉnh ngân sách sẽ đặt ra nhiều vấn đề pháp lý và thực tiễn phức tạp. Một thách thức nữa là tư tưởng cục bộ địa phương. Tâm lý so sánh, e ngại mất vị thế, hoặc lo ngại về phân bổ nhân sự, nguồn lực, quyền lợi có thể nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, công chức và người dân.
Ngoài ra, sự quá tải trong quản lý hành chính ở giai đoạn đầu, khi bộ máy mới đang trong quá trình tinh gọn, sắp xếp lại, cũng có thể gây gián đoạn tạm thời trong hoạt động của chính quyền cơ sở. Việc chuyển đổi dữ liệu, sáp nhập hệ thống quản trị, đồng bộ hạ tầng công nghệ thông tin và dịch vụ công đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng, nhân lực đủ năng lực và nhất là sự kiên định trong chỉ đạo điều hành.
Để việc hợp nhất địa giới hành chính thật sự trở thành cú huých cho phát triển vùng Đông Nam Bộ, cần một tầm nhìn chiến lược, thay đổi từ tư duy địa phương sang tư duy “chung lợi ích, chung nguồn lực”. Chính phủ cần xây dựng quy hoạch không gian phát triển vùng Đông Nam Bộ mở rộng, lấy liên kết kinh tế - xã hội làm trục, bảo đảm đồng bộ về hạ tầng, logistics, công nghiệp, đô thị và nguồn nhân lực. Việc hình thành hệ thống hành chính tinh gọn, liên thông phải song hành với thể chế kinh tế vùng đặc thù, cho phép huy động và phân bổ nguồn lực linh hoạt hơn, nhất là trong đầu tư công và thu hút doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần sớm hình thành hội đồng điều phối phát triển vùng, có thực quyền trong điều phối quy hoạch, quản lý đầu tư, kết nối hạ tầng và môi trường. Đây sẽ là “bàn tay hữu hình” bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo, tránh tình trạng ba tỉnh ba định hướng trong giai đoạn đầu hợp nhất.
Mặt khác, công tác cán bộ phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, khách quan, lựa chọn những người có năng lực, có tầm nhìn vùng, không để tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa cản trở tiến trình. Cùng với đó, cần đẩy mạnh chuyển đổi số quản trị hành chính, xây dựng chính quyền số thống nhất vùng Đông Nam Bộ, tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp thụ hưởng dịch vụ công nhanh, minh bạch và hiệu quả.
Quan trọng hơn cả, phải làm tốt công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận trong nhân dân, để mọi người cùng hiểu rằng, việc sáp nhập không chỉ là tái cấu trúc hành chính, mà là hành trình kiến tạo không gian phát triển mới, đưa vùng kinh tế năng động nhất cả nước phát triển bứt phá.