Theo lãnh đạo Bộ Y tế, cách làm đó là sự khẳng định mục tiêu phát triển của ngành trong giai đoạn mới.
Các số liệu thống kê về chỉ số sức khỏe của người Việt Nam đã có nhiều cải thiện trong những năm qua. Nhưng trước diễn biến khó lường của bệnh lây nhiễm và sự gia tăng của các bệnh không lây nhiễm (tim mạch, huyết áp, ung thư…) đã đặt ra những yêu cầu về sự thay đổi về tư duy cũng như chương trình hành động.
Giờ đây, chăm sóc sức khỏe không bắt đầu từ giường bệnh, mà phải từ cộng đồng, từ cuộc sống thường ngày. Khi người dân được phát hiện sớm nguy cơ bệnh tật, được tư vấn ngay tại địa phương, được theo dõi sức khỏe thường xuyên thì sẽ giảm được gánh nặng cho bệnh viện, giảm chi phí cho gia đình, và quan trọng hơn là nâng tầm chất lượng sống của toàn xã hội.
Tại buổi làm việc với đại diện Đảng ủy Chính phủ và các ban, bộ, ngành về đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của Trung ương về công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và định hướng công tác thời gian tới, Tổng Bí thư Tô Lâm đã kết luận: “Thống nhất thực hiện chủ trương khám sức khỏe định kỳ cho nhân dân ít nhất mỗi năm một lần”.
Đây không chỉ là một mục tiêu chuyên môn, mà là lời nhắc nhở, việc chăm sóc sức khỏe nhân dân không thể đợi đến khi có bệnh, càng không thể để ai bị bỏ lại phía sau. Bám sát chủ trương đó, Bộ Y tế xác định việc củng cố y tế cơ sở là gốc, chuyển đổi số là đòn bẩy, khám sức khỏe định kỳ toàn dân là bước đi căn cơ.
Không chỉ Bộ Y tế, nhiều địa phương cũng đã chú trọng triển khai các chương trình, đề án về công tác chăm sóc sức khỏe với trọng tâm là đưa công nghệ hiện đại về cơ sở, từ chuyển giao kỹ thuật, đến số hóa hồ sơ sức khỏe.
Trong thời gian tới, Bộ Y tế đã xác định ba định hướng lớn. Thứ nhất, đưa khám sức khỏe định kỳ toàn dân trở thành mục tiêu y tế quốc gia. Đây là bước đi quan trọng để phát hiện sớm, can thiệp sớm, phòng ngừa hiệu quả bệnh tật, nhất là các bệnh không lây nhiễm ngay từ cộng đồng, trước khi trở thành gánh nặng cho bệnh viện và gia đình.
Thứ hai, bảo đảm tiếp cận công bằng trong chăm sóc sức khỏe là nguyên tắc xuyên suốt. Theo đó, toàn ngành tập trung thu hẹp khoảng cách y tế giữa các vùng miền, nhóm dân cư; nâng cao năng lực y tế cơ sở, hiện đại hóa trạm y tế và thúc đẩy chuyển đổi số đồng bộ, để dù ở đô thị hay nông thôn, người dân đều được tiếp cận dịch vụ y tế thiết yếu một cách kịp thời, nhân văn và bình đẳng.
Thứ ba, xây dựng mạng lưới y tế thông minh cấp tỉnh, nơi mỗi địa phương chủ động kiến tạo hệ sinh thái y tế số của riêng mình (hồ sơ sức khỏe điện tử, khám, tư vấn từ xa, cảnh báo dịch bệnh sớm, hỗ trợ điều trị bằng trí tuệ nhân tạo). Đây là nền tảng để chuyển từ y tế phản ứng sang y tế dự báo, từ quản lý thủ công sang điều hành dựa trên dữ liệu, vì sức khỏe người dân.
Tương lai của ngành y tế sẽ được đánh giá bằng khả năng chạm tới từng người dân, nhanh hơn, gần hơn và nhân văn hơn. Và con đường duy nhất để hiện thực hóa điều đó, chính là xây dựng một hệ thống y tế cơ sở đủ mạnh, đủ hiện đại, nơi công nghệ song hành với cộng đồng và nơi người dân được đặt ở vị trí trung tâm của mọi chính sách.