Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi. (Ảnh: THỦY NGUYÊN)
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi. (Ảnh: THỦY NGUYÊN)

Chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách, tạo xung lực tăng trưởng mới cho giai đoạn tiếp theo

Năm 2026 là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2026-2030, mở đầu cho giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo cao trong điều hành chính sách nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tạo xung lực tăng trưởng mới cho giai đoạn tiếp theo.

Nỗ lực vượt bậc, đạt kết quả toàn diện, ấn tượng trên các lĩnh vực

Ngày 20/10, tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi đã trình bày Báo cáo thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2025, 5 năm 2021-2025; dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2026.

Theo đó, Ủy ban Kinh tế và Tài chính nhận định, Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2025 và 5 năm 2021-2025 diễn ra trong bối cảnh đặc biệt nhiều biến động, trong đó dịch bệnh, rủi ro địa chính trị, cạnh tranh chiến lược và yêu cầu chuyển đổi xanh, chuyển đổi số đan xen, tạo sức ép lớn lên tăng trưởng.

Ông Phan Văn Mãi nêu rõ, hai năm đầu nhiệm kỳ chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19; hai năm cuối nhiệm kỳ, đặc biệt là năm 2025, đã chứng kiến những quyết sách mang tính lịch sử, nổi bật là sự chuyển đổi sâu rộng về thể chế, với việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, cùng nhiều cải cách lớn về pháp luật, tổ chức bộ máy, kinh tế tư nhân, hạ tầng chiến lược, tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn và định hình công cuộc phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Việt Nam đã nỗ lực vượt bậc, đạt kết quả toàn diện, ấn tượng trên hầu hết các lĩnh vực. Dự kiến 22/26 chỉ tiêu giai đoạn 2021-2025 hoàn thành và vượt kế hoạch; riêng năm 2024 và 2025 đã hoàn thành 100% (15/15 chỉ tiêu), thể hiện sự nỗ lực bứt phá trong hai năm cuối nhiệm kỳ, trong đó năm 2025 đạt kết quả toàn diện, nổi bật, tăng trưởng ước đạt 8%, thuộc nhóm cao nhất khu vực.

Các ngành công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp đều tăng mạnh, duy trì xuất siêu; giữ vững ổn định vĩ mô, lạm phát được kiểm soát, khẳng định sức chống chịu, khả năng thích ứng linh hoạt và hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô.

ndo_br_chi-4450.jpg
Quang cảnh phiên họp của Quốc hội. (Ảnh: DUY LINH)

Thể chế được hoàn thiện mạnh mẽ, mô hình chính quyền địa phương 2 cấp được triển khai thực chất, tạo tiền đề cho tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị. Liên kết vùng tạo chuyển biến về chất, hình thành chuỗi đô thị, công nghiệp, dịch vụ gắn với kinh tế biển và thí điểm Khu thương mại tự do Đà Nẵng. Hạ tầng chiến lược phát triển bứt phá, đặc biệt là cao tốc.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giai đoạn 2021-2025 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, Việt Nam nằm trong nhóm 15 quốc gia thu hút FDI lớn nhất thế giới. Các chính sách về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, dân tộc, tôn giáo được triển khai đồng bộ, hiệu quả. An sinh xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được củng cố, đối ngoại đạt nhiều thành tựu nổi bật.

Ủy ban Kinh tế và Tài chính đánh giá cao các quyết sách mạnh mẽ, quyết liệt, tinh thần dám nghĩ, dám làm và sự điều hành linh hoạt, kịp thời của Chính phủ, nhờ đó đạt được nhiều kết quả tích cực, nhiều chỉ tiêu vượt dự báo, tạo nền tảng quan trọng, củng cố niềm tin, ổn định kinh tế vĩ mô và mở ra dư địa thuận lợi cho phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn tới.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, tình hình kinh tế-xã hội nước ta còn đối diện một số khó khăn, thách thức. Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng, dù đạt nhiều kết quả tích cực, nền kinh tế vẫn đối mặt nhiều khó khăn, động lực tăng trưởng lan tỏa chưa mạnh, với cấu trúc của thị trường vốn và mặt bằng lãi suất hiện nay, việc tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ là hết sức thách thức.

Để hoàn thành mục tiêu năm 2025, 5 năm 2021-2025, Chủ nhiệm Phan Văn Mãi nhấn mạnh sự cần thiết tiếp tục kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, phát huy vai trò chủ đạo của tài khóa mở rộng có trọng tâm, đồng thời đẩy mạnh cải cách thể chế, các động lực tăng trưởng truyền thống và phát triển mạnh các động lực tăng trưởng mới, tạo đà phát triển bền vững cho giai đoạn 2026-2030.

Tạo xung lực tăng trưởng mới cho giai đoạn tiếp theo

ndo_br_chi-4477.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi trình bày báo cáo. (Ảnh: THỦY NGUYÊN)

Về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2026, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính nêu rõ, trong bối cảnh thế giới được dự báo tiếp tục biến động nhanh, phức tạp và khó lường; trong nước, năm 2026 là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2026-2030, mở đầu cho giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo cao trong điều hành chính sách nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tạo xung lực tăng trưởng mới cho giai đoạn tiếp theo.

Ủy ban cơ bản thống nhất với các định hướng lớn, mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu và 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Báo cáo của Chính phủ, đồng thời nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện trong năm 2026.

Theo đó, kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững các cân đối lớn; điều hành linh hoạt, chủ động, thận trọng trong chính sách tài khóa, tiền tệ; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tài chính quốc gia; quản lý hiệu quả thị trường vàng.

Tiếp tục khơi thông dòng vốn, hướng dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng của nền kinh tế; thực thi hiệu quả chính sách nâng hạng thị trường chứng khoán; xây dựng cơ chế, chính sách thu hút hiệu quả các quỹ đầu tư quốc tế.

Củng cố năng lực nội sinh và sức chống chịu của nền kinh tế, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng trong nước. Trọng tâm là phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn và mới nổi; thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ, năng lượng sạch, xanh, nguyên tử, bán dẫn, không gian vũ trụ, lượng tử… để nâng cao năng suất, sức cạnh tranh và khả năng tự chủ của nền kinh tế.

Đồng thời, chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi năng lượng, hướng tới nền sản xuất hiện đại, bền vững và tự chủ về công nghệ, chuỗi cung ứng.

Phát triển mạnh thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng và mở rộng xuất khẩu bền vững, coi đây là trụ cột quan trọng giảm thiểu rủi ro bên ngoài. Tận dụng hiệu quả các FTA, mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu quốc gia cho các ngành hàng chủ lực, đáp ứng tiêu chuẩn xanh và truy xuất nguồn gốc, đồng thời tháo gỡ nút thắt logistics, hạ tầng và chi phí vận tải để nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng của hàng hóa Việt Nam.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các ngành khoa học, công nghệ cao và công nghệ nền tảng như điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, quản trị thông minh, khoa học cơ bản và các lĩnh vực mới nổi.

Tập trung đầu tư hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, thông minh, kết nối quốc gia, quốc tế, nhất là các công trình giao thông trọng điểm, năng lượng, hạ tầng số, logistics, thúc đẩy liên kết vùng.

Phát triển kinh tế tư nhân như một trụ cột của tăng trưởng bền vững; thực hiện hiệu quả các nghị quyết của Đảng và Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân, hoàn thiện thể chế, môi trường và không gian phát triển; thúc đẩy doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh, khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Quyết liệt tháo gỡ vướng mắc về thể chế, pháp luật, nhất là trong đầu tư, kinh doanh để giải phóng sức sản xuất, huy động nguồn lực cho phát triển; chủ động hoàn thiện chính sách, thử nghiệm có kiểm soát mô hình kinh tế mới, tạo hành lang pháp lý cho đổi mới sáng tạo; kiên quyết cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy định kinh doanh không phù hợp, thiếu khả thi.

Chú trọng phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện tốt chính sách đối với người có công, các đối tượng chính sách; nâng cao chất lượng công tác khám bệnh, chữa bệnh.

Bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam.

Xem thêm