Một trong những động lực đặc biệt quan trọng để hiện thực hóa khát vọng phát triển chính là khoa học-công nghệ và đội ngũ trí thức. Đây là những nhân tố nòng cốt giúp khu vực này phát triển nhanh, bền vững và đuổi kịp các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.
Tại Hội thảo khoa học mới đây về công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế tại miền trung-Tây Nguyên do Học viện Chính trị khu vực III tổ chức, liên quan đến việc phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở miền trung-Tây Nguyên, nhiều đại biểu cho rằng, mặc dù tiềm năng rất lớn nhưng tỷ lệ cán bộ khoa học có trình độ cao còn khiêm tốn. Số lượng tiến sĩ, chuyên gia đầu ngành chưa nhiều; sự gắn kết giữa nghiên cứu, ứng dụng và thị trường còn lỏng lẻo.
Theo Tiến sĩ Lê Văn Phục, giảng viên Học viện Chính trị khu vực III, hầu hết các tỉnh, thành phố tại miền trung-Tây Nguyên đang gặp tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ cán bộ trình độ cao chủ trì các công trình nghiên cứu khoa học có tầm quốc gia và quốc tế.
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm, nơi hội tụ nhiều trường đại học, trung tâm, viện nghiên cứu nhưng số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ cũng còn khiêm tốn. Chẳng hạn như Đại học Đà Nẵng có hơn 2.500 cán bộ, nhưng trong đó đội ngũ cán bộ khoa học có 125 giáo sư, phó giáo sư; 764 tiến sĩ, tiến sĩ khoa học. Hay Đại học Tây Nguyên hiện có 635 cán bộ nhưng chỉ có 1 giáo sư, 15 phó giáo sư; 109 tiến sĩ, 2 bác sĩ chuyên khoa.
Trong khi đó, Đại học Quy Nhơn có 495 viên chức giảng dạy thì chỉ có 1 giáo sư, 36 phó giáo sư, 218 tiến sĩ. Còn ở các tỉnh khác, đội ngũ này rất ít. Điển hình, tại tỉnh Kon Tum (trước đây), đến cuối năm 2020 toàn tỉnh có 9.500 người có trình độ đại học trở lên, trong đó có 755 người trình độ thạc sĩ và tương đương, 36 người có trình độ tiến sĩ; tỉnh Quảng Bình (trước đây) trước ngày 1/7/2025 có 77 tiến sĩ, 4 phó giáo sư, 1 nhà giáo nhân dân.
Những số liệu trên cho thấy, lực lượng cán bộ trí thức, làm công tác nghiên cứu khoa học ở miền trung-Tây Nguyên khá mỏng, không những vậy, còn phân tán và tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Đà Nẵng, Huế, Nha Trang (trước đây), Vinh (trước đây)…; trong khi đó ở Tây Nguyên, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số đội ngũ này rất mỏng và hạn chế.
Một bộ phận không nhỏ chưa tận tâm với nghiên cứu khoa học, giao lưu học thuật quốc tế, thiếu tính chủ động, sáng tạo vươn lên khẳng định mình mặc dù có bằng cấp cao. Hiện nay, miền trung-Tây Nguyên được xác định là một trong các cực tăng trưởng quan trọng của cả nước.
Việc quy hoạch tích hợp một số tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ thành các khu vực phát triển theo hướng chuyên ngành đã tạo ra nhiều cơ hội thu hút đầu tư vào công nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, chế biến sâu, logistics. Tuy nhiên, cơ hội chỉ có thể trở thành hiện thực nếu đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ thật sự đủ mạnh để làm chủ công nghệ, tiếp cận các xu hướng mới như chuyển đổi số, AI, IoT, chuỗi cung ứng toàn cầu. Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” là bước đi mang tính định hướng chiến lược.
Với miền trung-Tây Nguyên, nơi hiện còn thiếu vắng các viện nghiên cứu chuyên sâu, trung tâm sáng tạo và doanh nghiệp công nghệ cao mang tính dẫn dắt thì tinh thần của Nghị quyết số 45 chính là lời hiệu triệu hành động. Không chỉ dừng lại ở nhân lực, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024 tiếp tục khẳng định vai trò then chốt của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Với vùng Tây Nguyên nói riêng và miền trung-Tây Nguyên nói chung, nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, kết nối mạng lưới các viện, trường, khu công nghệ cao, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, hình thành “hệ sinh thái tri thức và đổi mới sáng tạo vùng”. Thực tiễn tại các tỉnh trong khu vực đã có những tín hiệu tích cực. Tại Đà Nẵng, nhiều doanh nghiệp công nghệ thông tin lớn đã tuyển dụng hàng nghìn kỹ sư và chuyên gia công nghệ. Huế đang đầu tư mạnh vào mô hình đô thị thông minh và công nghệ sinh học. Ở Gia Lai và Đắk Lắk, nhiều hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng chuỗi sản xuất nông sản.
Các địa phương như Đắk Lắk, Gia Lai hay Quảng Ngãi đã hình thành trung tâm logistics, công nghệ xanh kết hợp đào tạo nguồn nhân lực theo hướng thực hành. Tuy nhiên, sự phân tán và thiếu liên kết vùng vẫn là điểm nghẽn cần được khắc phục. Tiến sĩ Lê Văn Phục nhấn mạnh: “Nếu không có chính sách đầu tư chiến lược, thu hút trí thức trẻ về vùng thì dù tiềm năng có lớn đến đâu, chúng ta cũng khó có thể tạo ra bứt phá về khoa học và công nghệ”. Vấn đề đặt ra là các địa phương trong vùng cần nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn vai trò của khoa học công nghệ và đội ngũ trí thức trong mọi quy hoạch phát triển.
Không thể tiếp tục tình trạng lồng ghép hời hợt, không đầu tư tương xứng cho nghiên cứu, đào tạo, ươm mầm sáng kiến. Cần có các cơ chế tài chính đặc thù, chính sách ưu đãi mạnh mẽ để thu hút các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, nhất là người miền trung- Tây Nguyên đang làm việc tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nước ngoài. Đồng thời, phải đặt doanh nghiệp vào trung tâm của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; chỉ khi nào doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), chuyển đổi số thì mới có động lực để phát triển khoa học công nghệ thực chất, bền vững. Miền trung-Tây Nguyên có lợi thế lớn về không gian phát triển, tài nguyên và truyền thống hiếu học.
Nhưng muốn biến lợi thế thành sức mạnh để hình thành được những trung tâm công nghệ, đổi mới sáng tạo tầm cỡ vùng, điều cốt lõi là cần xây dựng được đội ngũ trí thức tinh hoa, có bản lĩnh chính trị, có khát vọng cống hiến và khả năng làm chủ tri thức hiện đại. Nghị quyết số 45 và Nghị quyết số 57 đã mở ra hành lang chính sách thuận lợi, vấn đề còn lại là hành động quyết liệt, đồng bộ từ mỗi địa phương để không lỡ nhịp trong cuộc đua phát triển mới .