Toàn cảnh buổi đối thoại. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Toàn cảnh buổi đối thoại. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Bàn giải pháp cải thiện chất lượng môi trường không khí ở đô thị

Chiều 18/12, Báo Nhân Dân tổ chức buổi đối thoại về vấn đề ô nhiễm không khí với chủ đề "Cải thiện chất lượng môi trường không khí ở đô thị" với sự tham gia của các nhà quản lý trong lĩnh vực môi trường; chuyên gia độc lập nghiên cứu về ô nhiễm không khí. 

Chương trình đối thoại có sự tham gia của các khách mời: Đồng chí Vũ Xuân Tùng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội; ông Trương Mạnh Tuấn, Phó Trưởng phòng Quản lý chất lượng môi trường, Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường; bà Lê Thanh Thủy, Phó Trưởng phòng Quản lý môi trường, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội; ông Nguyễn Quang Huy, Phó Trưởng phòng Quản lý Vận tải, Sở Xây dựng Hà Nội và Tiến sĩ Toán-Lý Nguyễn Lê Anh - Chuyên gia độc lập.

Nhà báo Nguyễn Ngọc Thanh, Trưởng Ban Nhân Dân điện tử, Báo Nhân Dân, cho biết, môi trường là vấn đề hiện hữu từng ngày và mỗi ngày, chúng ta đều dành sự quan tâm, lo ngại tác động của ô nhiễm không khí đến sức khỏe gia đình.

ndo_br_z7339684915016-50246e94e1e1903e427314666cb6acbb.jpg
Nhà báo Nguyễn Ngọc Thanh, Trưởng Ban Nhân Dân điện tử, Báo Nhân Dân phát biểu. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Vừa qua, Báo Nhân Dân đã có loạt bài phản ánh về tình trạng “Mùa đông ‘ngạt thở’ ở Hà Nội”, chỉ ra nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm không khí kéo dài thời gian qua. Vì thế, buổi đối thoại nhằm cụ thể hóa các giải pháp xử lý vấn đề khói bụi, ô nhiễm không khí để mang lại bầu trời xanh hơn cho Thủ đô.

“Bắc Kinh đã thay đổi kỳ tích trong hơn 10 năm qua. Đây là một trong những bài học để chúng ta học tập. Tôi mong các diễn giả sẽ có nhiều ý kiến đề xuất về mặt giải pháp, góp phần vào công tác hoạch định chính sách để tạo môi trường của chúng ta xanh-sạch-đẹp hơn”, nhà báo Nguyễn Ngọc Thanh đề xuất.

Sớm có đủ dữ liệu để xác định chính xác các điểm nóng ô nhiễm không khí

Tại buổi đối thoại, đồng chí Vũ Xuân Tùng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội đánh giá, chất lượng không khí tại Hà Nội đang chịu áp lực lớn theo tiến trình đô thị hóa. Nồng độ bụi mịn tăng cao trong những năm gần đây và biến động mạnh, nhất là trong thời gian cao điểm vào những tháng mùa đông và đầu mùa xuân.

ndo_br_z7339684927177-402cd1e7436a6a91d59506fcee3c573b.jpg
Các chuyên gia, khách mời tham gia tọa đàm. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Chỉ ra 4 nguồn gây ra tình trạng ô nhiễm không khí ngạt thở tại Hà Nội gần đây, ông Tùng nhấn mạnh, nguồn phát thải ảnh hưởng đến ô nhiễm không khí khó kiểm soát, nhất là hoạt động đốt mở (đốt rơm rạ, phụ phẩm nông nghiệp, rác thải tự phát) và các hoạt động dân sinh (đốt than tổ ong, vàng mã) vì chủ yếu diễn ra do thói quen, lối sống, phong tục tập quán. “Nguồn này phân tán chứ không tập trung như một số khu công nghiệp”, ông Tùng nói.

Để quản lý vấn đề này, Sở đã tham mưu để Thành phố ban hành các chỉ đạo chung trên toàn địa bàn, tập trung vào những hoạt động sinh hoạt và sản xuất của người dân có nguy cơ gây ô nhiễm không khí như đốt rơm rạ, đốt phụ phẩm nông nghiệp và các hành vi đốt rác tự phát. Công tác cảnh báo được thực hiện thường xuyên thông qua các văn bản gửi tới các cơ quan, địa phương, đặc biệt tại những khu vực và thời điểm diễn ra vụ mùa, vụ chiêm.

Bên cạnh đó, trong công tác quản lý, duy tu và vệ sinh môi trường, Thành phố đã phân cấp rõ trách nhiệm quản lý, duy trì vệ sinh môi trường và rác thải sinh hoạt cho chính quyền cấp xã, phường sau khi chuyển đổi mô hình chính quyền 2 cấp.

Song song với công tác tham mưu, phòng ngừa, Thành phố đặc biệt chú trọng tăng cường kiểm tra, giám sát. Bước đầu đã phối hợp với một số đơn vị cấp trên ứng dụng công nghệ trong quản lý, kiểm tra, giám sát như sử dụng thiết bị bay chụp tự động, camera giám sát nhằm phát hiện, cảnh báo sớm các khu vực phát sinh hiện tượng đốt rơm rạ, đốt rác thải nhỏ lẻ không đúng quy định; yêu cầu rác thải phải được thu gom, tập kết và xử lý tập trung theo quy định của Thành phố. Một số địa bàn đã được thí điểm quản lý bằng hệ thống camera và quay chụp để kịp thời cảnh báo, giúp chính quyền địa phương xử lý, khắc phục.

Ông Trương Mạnh Tuấn, Phó trưởng Phòng Quản lý chất lượng môi trường, Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, trong 5 năm qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai nhiều chính sách quan trọng nhằm kiểm soát chất lượng không khí trên phạm vi cả nước, trọng tâm là hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật. Năm 2023-2024, Bộ ban hành các quy chuẩn mới về chất lượng không khí xung quanh và khí thải công nghiệp với ngưỡng kiểm soát nghiêm ngặt hơn, buộc các cơ sở sản xuất phải nâng cấp công nghệ.

ndo_br_z7340070400951-dfe7f5cc480806481b7b84c007785fdb.jpg
Ông Trương Mạnh Tuấn, Phó Trưởng phòng Quản lý chất lượng môi trường, Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Bộ cũng hướng dẫn các địa phương thực hiện kiểm kê nguồn thải, coi đây là nền tảng khoa học bắt buộc cho quản lý chất lượng không khí; khoảng 30-40% địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch quản lý. Tháng 11/2024, Thủ tướng phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia khắc phục ô nhiễm không khí đến năm 2030, xác định rõ mục tiêu và lộ trình giảm ô nhiễm.

Bộ đang triển khai xây dựng nguồn dữ liệu về các nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm gồm 2 nhóm chính: Dữ liệu quan trắc và dữ liệu kiểm kê nguồn phát thải. Tuy nhiên, việc thu thập, tích hợp các nhóm dữ liệu này gặp nhiều khó khăn do nguồn phát thải phân tán, đa dạng. Dù có sự hỗ trợ của công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, công tác dữ liệu vẫn đòi hỏi hệ thống vận hành bài bản, nguồn nhân lực được đào tạo và nguồn lực duy trì lâu dài.

ndo_br_z7339764936091-9c84594103308c666905e7a7bf5d9d81.jpg
Bà Lê Thanh Thủy, Phó Trưởng phòng Quản lý môi trường, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Cùng chia sẻ này, bà Lê Thanh Thủy, Phó Trưởng phòng Quản lý môi trường, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội cho hay, hiện Hà Nội xây dựng mạng lưới quan trắc đáp ứng công tác đo lường, đánh giá chất lượng không khí. Tuy nhiên, việc đầu tư quan trắc khá tốn kém và để chờ Hà Nội có hệ thống quan trắc hoàn chỉnh như một số quốc gia khác sẽ cần nhiều thời gian.

Việc trước mắt là Hà Nội sử dụng công cụ khác như sử dụng vệ tinh, trí tuệ nhân tạo. Khoảng 5 năm trở lại đây, Sở đã phối hợp với các nhà khoa học, đặc biệt là Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), áp dụng các công cụ mô hình hóa nhằm đánh giá tác động tổng hợp của các nguồn phát thải.

Hiện thành phố đã triển khai các công cụ giám sát cộng đồng, tích hợp lên ứng dụng iHanoi để xác định các “điểm nóng”, từ đó làm rõ trách nhiệm của chính quyền xã, phường – cấp đã được phân cấp quản lý theo quy định.

Khó khăn lớn hiện nay là thiếu dữ liệu đầy đủ về môi trường không khí, chưa đủ cơ sở khoa học để xác định chính xác tỷ lệ đóng góp của từng nguồn phát thải. Do đó, thành phố đang triển khai tổng kiểm kê nguồn thải, dự kiến hoàn thành vào năm 2026 để có căn cứ khoa học rõ ràng.

ndo_br_z7339726622022-b1b25b3e55dfcb8c168f7c483d785414.jpg
Đại diện cơ quan quản lý chia sẻ tại tọa đàm. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Tại buổi đối thoại, Tiến sĩ Toán-Lý Nguyễn Lê Anh - Chuyên gia độc lập cho rằng, việc sử dụng kinh nghiệm người nước ngoài để áp dụng xử lý vấn đề ô nhiễm không khí tại Việt Nam gặp nhiều thách thức. Ô nhiễm bụi mịn là vấn đề mang tính hệ thống, gắn với quá trình phát triển kinh tế-xã hội và không thể giải quyết trong một sớm một chiều.

Chuyên gia này đề xuất cần phải xây dựng hệ thống quan trắc khoa học và cần phân tích dữ liệu một cách đầy đủ để xem dữ liệu có giúp liên kết với bệnh tật hay không? Có lượng hóa được chi phí y tế, gánh nặng xã hội do ô nhiễm gây ra hay không?

Thách thức trong công tác quản lý vận tải để giảm ô nhiễm không khí

Một nội dung được bạn đọc quan tâm tại buổi đối thoại là việc sử dụng phương tiện cá nhân tác động thế nào đến ô nhiễm không khí. Chia sẻ về nội dung này, ông Nguyễn Quang Huy, Phó Phòng Quản lý Vận tải, Sở Xây dựng Hà Nội chia sẻ, hiện hạ tầng giao thông và vận tải hành khách công cộng của Hà Nội chưa đáp ứng quy hoạch; các dự án giao thông khối lượng lớn triển khai chậm.

Hà Nội vẫn thiếu sự kết nối đồng bộ giữa xe buýt, đường sắt đô thị với các phương tiện xanh trung chuyển (xe đạp, xe máy điện). Hạ tầng trạm sạc, tiếp nhiên liệu sạch chưa được quy hoạch đồng bộ; quỹ đất hạn chế, thủ tục phức tạp, chi phí cao. Chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư phương tiện và dịch vụ giao thông xanh còn chưa đủ hấp dẫn.

ndo_br_z7340070394958-ffb8e7d35037fe8fa4bd52f7052ccb66.jpg
Ông Nguyễn Quang Huy, Phó Phòng Quản lý Vận tải, Sở Xây dựng Hà Nội. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Sở Xây dựng Hà Nội đã tham mưu ban hành nhiều văn bản, chính sách thực hiện chuyển đổi giao thông xanh theo Quyết định 876/QĐ-TTg và Chỉ thị 20; triển khai khảo sát, phát triển hạ tầng trạm sạc (110 vị trí tiềm năng).

Hà Nội cũng đưa vào hoạt động 12 tuyến xe buýt điện (160 xe), tiếp tục mở rộng giai đoạn 2026; xây dựng lộ trình chuyển đổi xanh cho taxi, xe hợp đồng dưới 9 chỗ, xe ôm công nghệ. Sở cũng hoàn thiện dự thảo Nghị quyết hỗ trợ người dân và doanh nghiệp chuyển đổi phương tiện cá nhân sang năng lượng sạch.

Theo ông Nguyễn Quang Huy, để phát triển giao thông bền vững thì vận tải hành khách công cộng và phương tiện sử dụng năng lượng sạch giữ vai trò then chốt trong giảm ô nhiễm và phát triển xe đạp công cộng (TNGo), mở rộng mạnh cả xe đạp thường và xe đạp điện.

ndo_br_z7339726640474-3f22c575fc4ead5c84b2f3c9190bace3.jpg
Toàn cảnh tọa đàm. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Chuyên gia này nhấn mạnh, để giải quyết vấn đề giao thông nội đô, cần hạn chế mạnh phương tiện cá nhân trong khu vực nội đô (từ Vành đai 3 trở vào), hướng tới dừng xe máy trong Vành đai 3 vào năm 2030; quản lý nhu cầu giao thông là giải pháp cốt lõi, song hành với nâng cao chất lượng vận tải hành khách công cộng; phát triển mini buýt trong Vành đai 1; bố trí bãi đỗ, trạm sạc, xe đạp công cộng...

Tuy nhiên, để làm điều này, ông Huy cho rằng cần phải có sự phối hợp đồng bộ của nhiều sở, ngành và chính quyền cơ sở; nâng cao công tác truyền thông để tạo sự đồng thuận xã hội.

Theo ông Trương Mạnh Tuấn, Phó Trưởng phòng Quản lý chất lượng môi trường, Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ đang tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến nguồn phát thải từ giao thông – nguồn được đánh giá có tỷ lệ đóng góp lớn trong tổng lượng ô nhiễm không khí tại Hà Nội và các đô thị.

Đối với quản lý xe máy, Bộ đang chuẩn bị ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải và đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét lộ trình áp dụng.

ndo_br_z7339726626707-935e696832dd9a8659c13dedff252371.jpg
Nhà báo-Nhà thơ Hữu Việt dẫn dắt buổi đối thoại. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Đối với ô-tô, Bộ đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe ô-tô tham gia giao thông đường bộ (QCVN 85:2025/BNNMT) và triển khai theo lộ trình siết chặt dần. Cuối tháng 11 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 43 quy định lộ trình áp dụng quy chuẩn khí thải ô-tô, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ nhưng có bước đi phù hợp.

Các khách mời khẳng định, kiểm soát ô nhiễm không khí là bài toán phức tạp, lâu dài, đòi hỏi dữ liệu khoa học đầy đủ, phối hợp liên vùng và sự tham gia, trách nhiệm của toàn xã hội.

Tiến sĩ Toán-Lý Nguyễn Lê Anh kiến nghị, Hà Nội cần có phương pháp đo mật độ bụi theo chiều cao, tại ít nhất 4 khu vực đại diện của thành phố. Dữ liệu đo ở độ cao lớn sẽ ổn định hơn, phản ánh đúng bản chất phát thải, khác với các điểm đo ở tầm thấp vốn chịu ảnh hưởng mạnh từ từng khu dân cư. Khi có được mô hình này, công tác dự báo và hoạch định chính sách sẽ có cơ sở khoa học vững chắc hơn.

Về ngắn hạn, Hà Nội cần tập trung vào 2 giải pháp trước mắt gồm phát triển hệ thống cây xanh tầm thấp, phù hợp với đặc điểm phân bố của bụi mịn và tăng cường vệ sinh môi trường đô thị: rửa lá cây, rửa đường, thu gom và xử lý rác thải thường xuyên. Những biện pháp này không chỉ góp phần giảm bụi, mà còn cải thiện điều kiện vệ sinh, phòng ngừa dịch bệnh cho cộng đồng.

Xem thêm