Khu vực nuôi cá chẽm công nghệ cao ở vùng nước sâu vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa. (Ảnh TIẾN MINH)
Khu vực nuôi cá chẽm công nghệ cao ở vùng nước sâu vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa. (Ảnh TIẾN MINH)

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển

Bài 2: Nuôi biển với “cuộc hẹn” chuyển đổi xanh

Cùng với nỗ lực ứng dụng công nghệ cao, việc tiến ra vùng biển xa bờ và bảo vệ môi trường là những yếu tố quan trọng để nghề nuôi biển phát triển bền vững.

Thời gian qua, việc chuyển từ vùng nước ven bờ, với hệ sinh thái nhạy cảm và dễ chồng lấn với các hoạt động kinh tế khác, ra vùng biển xa bờ là xu hướng phổ biến tại nhiều địa phương. Đây là hoạt động tuân thủ định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Ứng dụng công nghệ cao và tiến ra vùng biển xa

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ninh Phan Thanh Nghị cho biết, tỉnh dự kiến đề xuất Bộ Nông nghiệp và Môi trường báo cáo Chính phủ xem xét đưa tỉnh vào danh sách được hưởng hỗ trợ về cơ chế tín dụng đặc thù cho nuôi biển, chính sách bảo hiểm biển, nhất là đối với vùng nuôi xa bờ và mô hình ứng dụng công nghệ cao.

Hiện các địa phương ven biển trong tỉnh đã hình thành nhiều vùng nuôi biển tập trung, áp dụng mô hình nuôi công nghiệp với lồng bè hiện đại bằng nhựa HDPE phù hợp quy chuẩn về vật liệu nổi. Nhiều tổ chức/cá nhân như Hợp tác xã Thủy sản Thắng Lợi ở Vân Đồn đã tiên phong ứng dụng công nghệ lồng bè theo mô hình Na Uy vào nuôi biển bước đầu mang lại hiệu quả sản xuất ổn định, giảm rủi ro.

Một số mô hình nuôi biển kết hợp với giáo dục môi trường, như mô hình nuôi trồng thủy sản làng chài Vông Viêng, đã tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm thủy sản và góp phần phát triển kinh tế biển xanh.

Sau khi hợp nhất với tỉnh Ninh Thuận, tỉnh Khánh Hòa mới sẽ có gần 600km bờ biển, cùng hơn 200 đảo lớn, nhỏ. Tỉnh Khánh Hòa mới được đánh giá là địa phương nắm giữ “chìa khóa” chuyển đổi xanh trong ngành thủy sản. Vừa qua, một hộ nuôi biển công nghệ cao ở huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa đã đưa 2.000 con cá chim vây vàng ra nuôi tại vùng biển Hòn Nội. Đây là dấu mốc của ngành nuôi biển, khi lần đầu tiên cả nước có hộ dân nuôi trồng thủy sản cách bờ hơn 6 hải lý.

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cho biết, Sở và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã xây dựng mô hình thí điểm nuôi biển công nghệ cao tại vùng biển hở thuộc xã Cam Lập, thành phố Cam Ranh. Mô hình chọn 10 hộ nuôi đủ điều kiện tham gia để hỗ trợ 16 lồng tròn HDPE nuôi cá biển, 12 lồng vuông HDPE nuôi tôm hùm. Các lồng nuôi được lắp đặt thiết bị camera giám sát, hệ thống định vị trên biển, cho nên có thể giám sát từ xa 24/7 trên thiết bị điện tử, rất hữu ích cho nuôi trồng thủy sản ngoài khơi. Mô hình đã được tổng kết giai đoạn đầu, đem lại hiệu quả rất tốt.

Sau thành công của mô hình thí điểm nuôi biển công nghệ cao tại vùng biển hở ở thành phố Cam Ranh, từ nay đến năm 2029, tỉnh Khánh Hòa sẽ nhân rộng khoảng 240ha nuôi biển công nghệ cao, với tổng nguồn kinh phí hơn 545 tỷ đồng, để chuyển đổi lồng nuôi truyền thống sang lồng nuôi HDPE.

Ông Nguyễn Khánh Vân ở thành phố Cam Ranh cho biết, gia đình rất yên tâm sử dụng lồng HDPE để nuôi tôm hùm xanh ngoài vùng biển hở bởi hệ thống lồng hiện đại, vững chắc. Nhờ nguồn nước ngoài khơi sạch sẽ, thông thoáng, cho nên tôm sinh trưởng rất tốt, tỷ lệ sống đạt 80%, thời gian đạt tới kích cỡ thương phẩm cũng nhanh hơn khoảng gần 2 tháng so với trước.

Với nhiều lợi thế về nuôi biển, tỉnh Phú Yên cũng đã ban hành Kế hoạch về nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đến năm 2030, Phú Yên sẽ mở rộng thêm vùng biển hở xa bờ hơn 6 hải lý với diện tích mặt nước nuôi biển 3.650ha. Tỉnh chuyển đổi ít nhất 50% số lồng, bè nuôi truyền thống theo quy hoạch sang lồng HDPE, phát triển ngành nuôi biển đạt trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại và trở thành ngành hàng chủ lực.

Bảo vệ đại dương cho tương lai xanh

Việc phát triển kinh tế thủy sản theo hướng xanh, tuần hoàn, carbon thấp, có khả năng chống chịu cao, ưu tiên nuôi biển xa bờ, gắn với bảo tồn biển và văn hóa biển chính là cách để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh. Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhấn mạnh, đến năm 2030 đạt cơ bản mục tiêu ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã đặt ra chỉ tiêu đến năm 2030 đạt tỷ lệ diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển trên tổng diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia từ 3-5%. Thực tế cho thấy, việc thành lập các khu bảo tồn biển, đặc biệt là với mức độ bảo vệ cao, sẽ tạo ra một kho dự trữ giúp các quần thể thủy sản có thể phục hồi và sau đó lan tỏa ra các khu vực biển khác của Việt Nam.

Nhận thức rõ điều này, ngày 16/6, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận cho biết, đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án mở rộng, thành lập mới các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, phục hồi các hệ sinh thái biển đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh. Tỉnh sẽ triển khai nhiều chương trình, đề án, dự án ưu tiên, trong đó có chương trình truyền thông nâng cao năng lực về bảo tồn, bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái biển; phục hồi hệ sinh thái rạn san hô, rừng ngập mặn bị suy thoái; điểm thả rạn nhân tạo, phục hồi, tái tạo nguồn lợi, khoanh nuôi biển gắn với du lịch sinh thái tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân.

Hiện nay, tỉnh Bình Thuận có 2 khu bảo tồn biển là Cù Lao Câu (huyện Tuy Phong) và huyện đảo Phú Quý. Điều tra sơ bộ tại Khu bảo tồn biển đảo Phú Quý đã ghi nhận 70 loài thực vật ở cạn, 72 loài tảo biển và một khu vực san hô rộng lớn ở vùng biển ngoài khơi của đảo Phú Quý. Cù Lao Câu được các nhà khoa học nghiên cứu và đánh giá là vùng biển có các rạn san hô còn giữ độ bao phủ cao. Qua khảo sát, có hơn 225 loài san hô đã được xác định; trong đó, có nhiều loài chỉ có ở vùng biển Cù Lao Câu.

Đây cũng là nơi có rùa biển sinh sản và đặc biệt là loài trai tai tượng khổng lồ phân bố khắp khu vực này. Với những kết quả nêu trên, có thể thấy, bảo tồn biển là bước đi cần thiết, mang lại nhiều lợi ích quan trọng, góp phần bảo vệ đa dạng sinh học, duy trì nguồn lợi thủy sản, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và thúc đẩy kinh tế biển bền vững.

Xem thêm