Nghị quyết số 57 được xác lập nhằm tạo ra những động lực trọng yếu để Việt Nam có bước chuyển nhanh, căn bản về chất, chuyển từ mô hình phát triển dựa vào tài nguyên giá rẻ sang mô hình phát triển theo chiều sâu dựa vào tri thức, sáng tạo và dữ liệu. Nghị quyết đi vào cuộc sống đã tạo ra xung lực mới, lan tỏa khí thế hành động mạnh mẽ trong toàn hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương, cả khu vực kinh tế nhà nước và tư nhân, từng gia đình, người dân, dần tạo nên hình hài quốc gia số hiện đại, phồn vinh.
“Hình hài” quốc gia số
Một năm triển khai Nghị quyết số 57 đã minh chứng cho tầm nhìn chiến lược và giá trị dẫn dắt sâu rộng của văn kiện quan trọng này. Hành trình hiện thực hóa mục tiêu quốc gia số đang đối mặt không ít thách thức mang tính nền tảng. Thực tế triển khai đã ghi nhận chuyển biến bước đầu, đồng thời nhận diện vướng mắc cần tháo gỡ và các động lực phải tiếp tục được khơi dậy. Những vấn đề đặt ra đòi hỏi chúng ta không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, tiên phong và quyết tâm chính trị để hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Sau một năm triển khai, tinh thần đột phá của Nghị quyết số 57 đã thay đổi cơ bản phương thức quản trị quốc gia và thúc đẩy chuyển đổi số trên toàn quốc. Việt Nam đang định hình rõ “hình hài” của một quốc gia số.
Thực tế cho thấy: Nghị quyết số 57 đẩy nhanh, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chính quyền số và cải cách hành chính. Theo số liệu thống kê bước đầu, các bộ, ngành đã cắt giảm, đơn giản hóa 3.241 quy định kinh doanh (đạt 20,56%), vượt mục tiêu tối thiểu 20% mà Chính phủ đề ra. Cổng dịch vụ công quốc gia đã cung cấp trực tuyến đầy đủ 56/76 dịch vụ công thiết yếu. Lần đầu, các thủ tục hành chính của Đảng được tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia. Ban Bí thư ban hành Kiến trúc Chuyển đổi số Đảng 3.0 và quy định vận hành Hệ thống điều hành tác nghiệp điện tử, tạo nền tảng cho mô hình “Đảng số”. 100% tỉnh, thành phố đã có Trung tâm điều hành thông minh (IOC) hoặc Trung tâm chuyển đổi số để giám sát dữ liệu thời gian thực. Chính quyền số từng bước chuyển từ “hành chính giấy tờ” sang “hành chính thông minh”, minh bạch và gần dân hơn…
Mặc dù còn khó khăn về hạ tầng và nhân lực ở cấp cơ sở, các chỉ số về tỷ lệ giải quyết hồ sơ trực tuyến là minh chứng cho sự chuyển đổi tư duy quản trị.
Tại Hà Nội, toàn bộ 2.146 thủ tục hành chính được cung cấp trực tuyến. Tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến tăng mạnh từ 23,45% lên 99% chỉ trong bốn tháng (từ ngày 1/7 đến 12/11/2025). Tỉnh Quảng Ninh đã kết nối 15 cơ sở dữ liệu quốc gia, 100% thủ tục hành chính cấp tỉnh cung cấp trực tuyến và tỷ lệ thực hiện phi địa giới hành chính cũng đạt xấp xỉ 100%. Tuy là một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, nhưng hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của Cao Bằng đã cơ bản hoạt động ổn định, cung cấp 639 dịch vụ công trực tuyến toàn trình và 1.136 dịch vụ công trực tuyến một phần.
Về phát triển kinh tế số, Nghị quyết số 57 đã thúc đẩy tạo lập nhu cầu thị trường rõ ràng và động lực cho doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển (R&D) các sản phẩm công nghệ chiến lược. Việt Nam hiện đứng thứ 41 thế giới về tỷ trọng kinh tế số/GDP, với tốc độ tăng trưởng hơn 20%/năm, nhanh nhất Đông Nam Á. Năm 2025, quy mô kinh tế số Việt Nam dự kiến đạt khoảng 39 tỷ USD. Luật Công nghiệp công nghệ số (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026) quy định rõ cơ chế ưu đãi đầu tư, thuế, đất đai, ưu đãi khấu trừ thuế cho R&D; thiết lập cơ chế thí điểm (sandbox) và cơ chế miễn trừ trách nhiệm đối với doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới. Luật cũng thể chế hóa tinh thần khuyến khích mua sắm công đối với các sản phẩm do doanh nghiệp trong nước tạo ra.
Danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược được Bộ Khoa học và Công nghệ tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành là cơ sở quan trọng giúp các doanh nghiệp định hướng phát triển phù hợp chiến lược phát triển quốc gia. Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) chủ động tham gia phát triển 9 trên 11 nhóm công nghệ chiến lược, làm chủ hoàn toàn hệ sinh thái sản phẩm 5G và bước đầu xuất khẩu sang Ấn Độ và UAE. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) nghiên cứu các công nghệ chiến lược như mô hình GenAI Make in Việt Nam, hợp tác nghiên cứu thiết kế vi mạch bán dẫn dự kiến sản xuất và cung cấp ra thị trường vào năm 2028. Tập đoàn FPT đầu tư xây dựng và vận hành AI Factory đầu tiên tại Việt Nam. Tập đoàn Công nghệ CMC tập trung vào chiến lược AI-X và Go Global, phát triển C-OpenAI - hệ sinh thái công nghệ mở với 25 công nghệ lõi “Made by CMC”…
Trong danh mục các công nghệ chiến lược, blockchain (chuỗi khối) cũng được xác định là một mũi nhọn. Sự phát triển của nền tảng blockchain, đặc biệt trong lĩnh vực tài sản số, đã được Luật Công nghiệp công nghệ số đặt nền móng thông qua các hành lang pháp lý ban đầu. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết 05 với mục tiêu chuyển hoạt động từ “thả nổi” sang sân chơi được cấp phép, minh bạch và an toàn hơn. Điều này tạo ra cơ hội hình thành một thị trường vốn mới cho nền kinh tế.
Tiến sĩ Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV cho rằng: "Những gì hiện nay chúng ta đang giao dịch vật chất thì sau này có thể được số hóa, chia nhỏ và đưa lên nền tảng blockchain để giao dịch. Đây chính là thị trường tài sản số. Một thị trường rất rộng lớn".
Xác định vai trò chiến lược của dữ liệu, Nghị quyết số 57 nêu quan điểm chỉ đạo là phải “làm giàu, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính”. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 165/2025/NĐ-CP quy định chi tiết về Luật Dữ liệu, quản lý và bảo vệ dữ liệu. Tính đến tháng 11, Việt Nam có 39 trung tâm dữ liệu vừa và nhỏ. Một dự án trung tâm dữ liệu có quy mô siêu lớn đang được Viettel triển khai có công suất lên tới 140 MW. Việc đặt trung tâm dữ liệu trong nước là yếu tố chiến lược để bảo đảm an ninh mạng và tuân thủ quy định về lưu trữ dữ liệu công dân.
Những gì hiện nay chúng ta đang giao dịch vật chất thì sau này có thể được số hóa, chia nhỏ và đưa lên nền tảng blockchain để giao dịch. Đây chính là thị trường tài sản số. Một thị trường rất rộng lớn.
Doanh nghiệp và nhân lực công nghệ chưa đáp ứng kỳ vọng
Mặc dù đã ghi nhận những bước tiến mang tính đột phá và tạo ra xung lực mới trong quản trị quốc gia, phát triển doanh nghiệp và kiến tạo thị trường công nghệ, quá trình triển khai Nghị quyết số 57 cũng cho thấy không ít thách thức, khó khăn. Đáng chú ý, phải kể đến việc đóng góp của doanh nghiệp Việt vẫn chưa được như kỳ vọng. Cùng với đó, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ cao vẫn là điểm nghẽn lớn.
Trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt hiện vẫn chưa trở thành động lực đổi mới như kỳ vọng. Khu vực tư nhân vốn được xem là năng động nhất lại chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ với nguồn lực hạn chế, nên ngại đầu tư cho các dự án đổi mới dài hạn. Dù chiếm gần 98% trong hơn 940.000 doanh nghiệp cả nước, tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân có hoạt động đổi mới sáng tạo thấp hơn so với các nước phát triển.
Doanh nghiệp tư nhân cũng phản ánh, một số cơ quan, đơn vị vẫn có xu hướng ưu tiên hợp tác với doanh nghiệp nhà nước vì tâm lý “an toàn”. Không ít doanh nghiệp nhà nước tận dụng lợi thế để ký kết hợp tác chiến lược với nhiều nơi, tạo ra môi trường cạnh tranh chưa thật sự bình đẳng, làm hạn chế vai trò của khu vực tư nhân trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Hạn chế không chỉ nằm ở năng lực doanh nghiệp mà còn ở mối liên kết lỏng lẻo giữa doanh nghiệp với viện, trường. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn đổi mới nhưng không biết tìm công nghệ, chuyên gia ở đâu, trong khi các viện nghiên cứu có sẵn sáng chế lại khó kết nối để thương mại hóa. Việc thiếu các tổ chức trung gian và mạng lưới kết nối cung-cầu công nghệ khiến hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vận hành chưa hiệu quả.
Về nguồn nhân lực công nghệ, dù đã có nhiều cố gắng, Việt Nam vẫn thiếu hụt lớn nhân lực chất lượng cao trong nhiều ngành chiến lược như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, an ninh mạng và bán dẫn. Hiện cả nước có khoảng 500.000 lao động công nghệ thông tin, nhưng nhu cầu thực tế được dự báo có thể lên tới 2 triệu người vào năm 2030. Riêng lĩnh vực vi mạch và thiết kế bán dẫn cần khoảng 50.000 kỹ sư, trong khi năng lực đào tạo hiện mới chỉ đáp ứng một phần; an ninh mạng cũng được dự báo thiếu hơn 700.000 nhân sự chuyên trách trong 3 năm tới.
Không chỉ thiếu về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực công nghệ cao cũng còn hạn chế khi nhiều chương trình đào tạo nặng lý thuyết, thiếu thực hành, thiếu giảng viên giỏi và hạ tầng phòng thí nghiệm. Theo Giáo sư, Tiến sĩ Trần Tuấn Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, nhân lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở một số lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, kỹ năng liên ngành, năng lực thực hành còn hạn chế. Trong khi cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương với doanh nghiệp, viện nghiên cứu và trường đại học chưa thật sự nhịp nhàng, đồng bộ, nhiều viện nghiên cứu đứng trước nguy cơ hụt dần đội ngũ chuyên gia trình độ cao, các ngành mũi nhọn bị “hút” mất chuyên gia vào khu vực tư nhân và các tập đoàn công nghệ lớn.
Đặc biệt, chúng ta đang thiếu các “tổng công trình sư” để triển khai các nhiệm vụ cấp thiết của địa phương cũng như các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia. Ở các lĩnh vực đòi hỏi trình độ rất cao như vi mạch, AI, sinh học phân tử hay công nghệ vũ trụ, thiếu chuyên gia người Việt đạt đẳng cấp quốc tế đứng mũi chịu sào.
Thực trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao gắn liền với tình trạng “chảy máu chất xám” kéo dài nhiều năm. Nhiều học sinh, sinh viên giỏi ra nước ngoài và lựa chọn ở lại làm việc, trong khi khu vực công trong nước khó giữ chân chuyên gia do chế độ đãi ngộ và môi trường nghiên cứu chưa đủ sức cạnh tranh. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng một chiến lược phát triển nhân lực công nghệ toàn diện, với các cơ chế đủ mạnh để thu hút, sử dụng và giữ chân nhân tài.
Những hạn chế về năng lực doanh nghiệp, thiếu hụt nhân lực công nghệ mới là số ít điểm nghẽn cần tháo gỡ. Sự bứt phá của Nghị quyết số 57 còn bị cản trở bởi độ trễ của thể chế quản lý, hạ tầng chưa theo kịp yêu cầu phát triển, dữ liệu chưa liên thông và các nút thắt tài chính chưa được tháo gỡ. Bên cạnh đó, việc nâng cao kỹ năng số cho người dân cũng là một thách thức lớn cần được ưu tiên xử lý.
(Còn nữa)