Nhờ đó, ngành lâm nghiệp có thể cảnh báo sớm, theo dõi biến động rừng theo thời gian thực, hướng tới quản lý hiện đại, hiệu quả.
Nghị quyết số 57-NQ/TW (ngày 22/12/2024) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đang mở ra cơ hội để ngành lâm nghiệp và kiểm lâm chuyển mình mạnh mẽ. Từ nền tảng chính sách này, quá trình số hóa trong quản lý, giám sát và bảo vệ tài nguyên rừng được kỳ vọng tạo bước đột phá, vừa hiện đại hóa công tác lâm nghiệp, vừa đáp ứng yêu cầu bảo vệ “lá phổi xanh” của đất nước.
Cánh tay nối dài trong quản lý rừng
Từ trung tâm thành phố Sơn La, vượt hàng chục cây số với 30 khúc cua tay áo, chúng tôi đến Hạt Kiểm lâm khu vực VIII và Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Mường La, nơi có đỉnh Sam Síp cao gần 1.900m. Phó Hạt trưởng Kiểm lâm khu vực VIII Hoàng Tuấn Anh cho biết, sau khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, Ban Quản lý khu bảo tồn được giao quản lý khoảng 17,8 nghìn ha rừng tại các xã Mường La, Chiềng Lao, Ngọc Chiến, còn Hạt Kiểm lâm phụ trách hơn 33 nghìn ha. Tuy nhiên, tổng số nhân lực chỉ hơn 20 cán bộ, trong khi khối lượng công việc và trách nhiệm bảo vệ rừng ở đây rất lớn.

Trước đây, khi chưa áp dụng công nghệ số, công tác tuần tra và bảo vệ rừng chủ yếu dựa vào sức người với những phương tiện thô sơ. Lực lượng kiểm lâm phải đi bộ xuyên rừng, ăn ngủ tại chỗ trong nhiều ngày, thường xuyên đối mặt với nguy hiểm từ thú dữ, mưa bão, lũ quét.
Trước đây, khi chưa áp dụng công nghệ số, công tác tuần tra và bảo vệ rừng chủ yếu dựa vào sức người với những phương tiện thô sơ. Lực lượng kiểm lâm phải đi bộ xuyên rừng, ăn ngủ tại chỗ trong nhiều ngày, thường xuyên đối mặt với nguy hiểm từ thú dữ, mưa bão, lũ quét. Việc ghi chép số liệu tuần tra hoàn toàn bằng giấy bút, tọa độ điểm nóng hay vị trí vi phạm được xác định chủ yếu nhờ kinh nghiệm kết hợp với thiết bị GPS, dẫn đến dữ liệu rời rạc, thiếu tính hệ thống, khó tổng hợp.
Theo ông Nguyễn Huy Tuấn, Chi cục trưởng Kiểm lâm Sơn La, tình hình đã thay đổi rõ rệt nhờ ứng dụng công nghệ số. Các phần mềm như SMART hỗ trợ quản lý và báo cáo tuần tra; FRMS Desktop và FRMS Mobile giúp theo dõi diễn biến rừng trên máy tính và điện thoại; cùng các thiết bị bay không người lái (UAV, drone, flycam), camera giám sát, công nghệ viễn thám và ảnh vệ tinh cho phép ghi lại vị trí, hình ảnh, video minh chứng trực quan. Nhờ đó, lực lượng kiểm lâm có thể nhanh chóng phát hiện biến động rừng, khoanh vùng điểm nóng và xử lý kịp thời.
Giám đốc Vườn quốc gia Tà Đùng, tỉnh Lâm Đồng Khương Thanh Long cho biết, từ khi công nghệ số được ứng dụng trong ngành lâm nghiệp, lực lượng kiểm lâm dễ dàng phát hiện những biến động của rừng và đất lâm nghiệp, nhất là các vụ phá rừng, cháy rừng, săn bắt trái phép động vật hoang dã ở mọi vị trí, mọi thời điểm. Việc ứng dụng công nghệ còn góp phần nâng cao năng lực tư duy số cho đội ngũ cán bộ, tăng hiệu quả giám sát, bảo vệ rừng.
Minh chứng cho hiệu quả ứng dụng công nghệ trong quản lý, bảo vệ rừng đã mang lại những tác động ưu việt, vượt trội so với các phương pháp truyền thống, Quyền Chi cục trưởng Kiểm lâm Cao Bằng Hoàng Phượng Vỹ nêu thí dụ cụ thể: “Để xác định hiện trạng hơn 1.000ha rừng tại xã Minh Khai, chỉ cần hai cán bộ kiểm lâm, sử dụng flycam chụp ảnh có gắn tọa độ trong vòng bốn giờ đồng hồ, sau đó, mất thêm một buổi chỉnh sửa, ghép ảnh, là đã hoàn thành bản đồ hiện trạng của hơn 1.000ha rừng. Trong khi đó, nếu sử dụng sức người, trèo đèo, lội suối, băng rừng đo đạc, xác định hiện trạng rừng thì cần từ năm đến bảy người, thực hiện ròng rã khoảng một tháng cũng chưa chắc xác định xong hiện trạng của hơn 1.000ha rừng. Chưa nói đến sự chính xác sẽ kém hơn so với sử dụng flycam chụp ảnh có gắn tọa độ để hoàn thành bản đồ hiện trạng rừng của từng gia đình...”.

Hiệu quả giám sát và xử lý vi phạm nhờ công nghệ
Không chỉ hỗ trợ lực lượng kiểm lâm quản lý, giám sát biến động rừng, các phần mềm FRMS, QGIS, Mapinfo… còn giúp phát hiện kịp thời, chính xác những vi phạm Luật Lâm nghiệp. Sáu tháng đầu năm 2025, kiểm lâm tỉnh Sơn La đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý 123 vụ phá rừng trái phép; một số vụ việc nghiêm trọng đã bị khởi tố hình sự, như ở bản Khá Men, xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp (nay là bản Khá Men, xã Sốp Cộp); bản Pom Sản (nay là bản Nà Cả), xã Mường Chanh. Tại Lào Cai, cùng kỳ năm 2024, cơ quan chức năng phát hiện và xử lý 86 vụ vi phạm liên quan đến rừng...
Với những vụ vi phạm nêu trên, thậm chí những vụ cháy rừng do người dân khai thác mật ong hoặc tự ý đốt thực bì sau khai thác rừng…, nếu sử dụng phương pháp truyền thống thì thời gian phát hiện vi phạm, tiếp cận hiện trường thường chậm, quá trình xử lý kéo dài. Nhưng khi ứng dụng các công nghệ số, công nghệ viễn thám thì thời gian này được rút ngắn tối đa bởi công nghệ giúp cán bộ kiểm lâm phát hiện nhanh các biến động, vi phạm liên quan rừng. Sau đó, cán bộ kiểm lâm có thể sử dụng flycam để khoanh vùng chính xác vị trí, mức độ vi phạm. Thông qua dữ liệu GPS và bản đồ số, lực lượng kiểm lâm có thể xác định tuyến đường ngắn nhất để nhanh chóng tiếp cận hiện trường vụ việc. Tại những vị trí lắp đặt hệ thống bẫy ảnh, camera giám sát có thể phát hiện các đối tượng, hành vi vi phạm ngay lập tức.
Phó Cục trưởng Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Nguyễn Hữu Thiện cho biết, ngành lâm nghiệp đã tiên phong ứng dụng ảnh viễn thám vào quản lý, bảo vệ rừng từ năm 2000. Giai đoạn 2013-2016, hơn 730 cảnh ảnh vệ tinh SPOT5, VNREDSat-1 được sử dụng trong kiểm kê rừng theo Quyết định số 594/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Từ năm 2005, công nghệ viễn thám đã hỗ trợ phát hiện sớm điểm nóng cháy rừng với ảnh vệ tinh NOAA, TERRA, AQUA... Đến năm 2020, hệ thống SENTINEL, LANDSAT được tích hợp để giám sát biến động rừng theo thời gian thực… Hiệu quả của việc kết hợp viễn thám với các công nghệ số thể hiện ở việc rút ngắn thời gian phát hiện và xử lý vi phạm, tăng tính chính xác trong kiểm kê, theo dõi diễn biến rừng, tối ưu hóa nguồn lực con người, và nâng cao sự minh bạch trong giám sát tài nguyên rừng.
Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Viễn thám quốc gia (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, dữ liệu từ VNREDSat-1, SPOT6, KOMPSAT-3A do Việt Nam chủ động thu nhận và quản lý đã được sử dụng hiệu quả trong kiểm kê, điều tra tài nguyên rừng, giúp giảm phụ thuộc nước ngoài và bảo đảm tính cập nhật, đồng bộ.
(Còn nữa)...