Phóng viên: Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao cho biết ý nghĩa, mục đích và những ưu tiên hàng đầu của Tổng Bí thư Tô Lâm trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hàn Quốc sắp tới và những định hướng về sự phát triển của quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc trong thời gian tới?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Nhận lời mời của Tổng thống Lee Jae Myung, Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm cấp Nhà nước đến đất nước Hàn Quốc tươi đẹp và mến khách, với tư cách Quốc khách đầu tiên của chính quyền mới. Đây cũng là chuyến thăm đầu tiên tới Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm trên cương vị mới. Điều này thể hiện sự coi trọng và ưu tiên cao độ của lãnh đạo cấp cao hai nước đối với quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hàn Quốc.
Sau hơn 30 năm xây dựng và phát triển, quan hệ Việt-Hàn đã trở thành hình mẫu, phát triển sâu rộng và đạt nhiều thành quả đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực, đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Chuyến thăm Hàn Quốc của Tổng Bí thư lần này là sự khẳng định mạnh mẽ quyết tâm của Việt Nam trong việc làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc, với mong muốn tin cậy chính trị cao hơn, phối hợp chiến lược chặt chẽ hơn, hợp tác thực chất toàn diện hơn và tình cảm hữu nghị giữa người dân hai nước gắn bó hơn.
Đây cũng là dịp quan trọng để lãnh đạo cao nhất của hai nước trao đổi toàn diện về những biện pháp lớn, xác định ưu tiên và mở ra những hướng hợp tác mới trong các lĩnh vực để tiếp tục đưa quan hệ Việt-Hàn tiến vững, tiến xa trong kỷ nguyên phát triển mới, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân và doanh nghiệp hai nước trong bối cảnh thế giới và khu vực đang diễn biến phức tạp, khó dự đoán.
Qua chuyến thăm, Việt Nam sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới Hàn Quốc tập trung triển khai một số định hướng hợp tác trọng điểm sau:
Một là, tăng cường trao đổi cấp cao, nâng tầm hợp tác trong các lĩnh vực trọng yếu như ngoại giao, quốc phòng, an ninh.
Hai là, nâng cao hiệu quả hợp tác thực chất, đặc biệt là các lĩnh vực mà Hàn Quốc có thế mạnh và phù hợp với định hướng phát triển mới của Việt Nam như cơ sở hạ tầng, điện tử công nghệ cao, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, đô thị thông minh, tổ hợp công nghiệp chuyên sâu theo chuỗi giá trị, xứng tầm là trụ cột quan trọng hàng đầu của quan hệ song phương.
Ba là, định hình và đưa hợp tác khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thành trụ cột mới trong quan hệ song phương.
Bốn là, thúc đẩy những hướng hợp tác mới, đa dạng hơn về công nghiệp văn hóa, du lịch, lao động, biến đổi khí hậu, giáo dục, y tế và giao lưu nhân dân.
Hàn Quốc có câu tục ngữ “Đồng sức, đồng lòng, thắng cả trời cao”. Tôi tin tưởng rằng, trên nền tảng đã làm nên thành công của hai đất nước và những lợi ích chiến lược cơ bản tương đồng, quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hàn Quốc đang đứng trước tương lai tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn, ngày càng phát triển thực chất, hiệu quả, bền vững và lâu dài.
Chuyến thăm Hàn Quốc của Tổng Bí thư lần này là sự khẳng định mạnh mẽ quyết tâm của Việt Nam trong việc làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc, với mong muốn tin cậy chính trị cao hơn, phối hợp chiến lược chặt chẽ hơn, hợp tác thực chất toàn diện hơn và tình cảm hữu nghị giữa người dân hai nước gắn bó hơn.
- Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn
Phóng viên: Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao đánh giá về hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Hàn Quốc thời gian qua? Việt Nam sẽ có các chính sách gì để tăng cường thu hút hơn nữa đầu tư của doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam trong thời gian tới? Liệu có biện pháp cụ thể nào mà hai nước có thể cùng nhau thực hiện để tăng cường khả năng phục hồi và hợp tác của chuỗi cung ứng không?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư luôn là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước, là nguồn động lực chính thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của cả Việt Nam và Hàn Quốc. Đối với Việt Nam, Hàn Quốc hiện là một trong những đối tác đầu tư quan trọng hàng đầu với hơn 10.000 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt 93,7 tỷ USD. Sự hiện diện của các tập đoàn toàn cầu của Hàn Quốc tại Việt Nam là minh chứng sinh động cho niềm tin chiến lược mà các doanh nghiệp Hàn Quốc dành cho môi trường đầu tư và triển vọng phát triển của Việt Nam.
Cùng với đó, hợp tác trong phục hồi chuỗi cung ứng cũng được hai nước xác định là ưu tiên chiến lược trong quan hệ. Trong bối cảnh kinh tế thế giới đối mặt với nhiều bất ổn như biến động địa chính trị, chính sách bảo hộ thương mại gia tăng, đặc biệt các rủi ro về thuế quan từ một số đối tác lớn, hơn bất kỳ lúc nào, hai nước cần phối hợp để bảo đảm tính bền vững và linh hoạt của chuỗi cung ứng trên cơ sở hai nền kinh tế có tính bổ trợ cao.
Trên tinh thần đó, Việt Nam cam kết đồng hành cùng các doanh nghiệp Hàn Quốc phát triển chuỗi cung ứng đa dạng và có giá trị cao, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn và ở phân khúc cao hơn trong mạng lưới cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp Hàn Quốc. Đảng, Nhà nước Việt Nam sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Hàn Quốc, tiếp tục đầu tư ổn định và lâu dài, cũng như tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và cùng phát triển.
Thời gian qua, chúng tôi đã triển khai một loạt chủ trương, biện pháp lớn mang tầm cách mạng về sắp xếp, tinh gọn bộ máy chính trị; tập trung ưu tiên phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện trong tình hình mới; cải cách hành chính và hệ thống pháp luật, ưu tiên phát triển kinh tế tư nhân, qua đó kiến tạo không gian phát triển mới cho đất nước, đồng thời mở ra cơ hội và điều kiện thuận lợi chưa từng có đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Hàn Quốc vốn đã có kinh nghiệm và nền tảng rất thành công tại Việt Nam.
Tôi tin tưởng rằng, với quyết tâm chính trị cao từ lãnh đạo cấp cao hai nước, cùng sự năng động và sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp hai nước, Việt Nam và Hàn Quốc sẽ tiếp tục là bạn đồng hành phát triển của nhau, phát huy tốt hơn nữa thành quả của trụ cột hợp tác đầu tư, đóng góp tích cực vào phục hồi và phát triển bền vững của khu vực và toàn cầu.
Phóng viên: Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về văn hóa và tình cảm, giao lưu nhân dân cũng ngày càng chặt chẽ. Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng cho biết những biện pháp, chính sách nhằm tăng cường giao lưu nhân dân và thúc đẩy hợp tác văn hóa giữa hai nước trong thời gian tới?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, lịch sử, giá trị xã hội, truyền thống trọng nghĩa tình, tinh thần cộng đồng, ý chí vươn lên. Với hơn 350 nghìn người Việt Nam đang sinh sống tại Hàn Quốc và hơn 250 nghìn người Hàn Quốc đang sinh sống tại Việt Nam, trong đó có khoảng 100 nghìn gia đình đa văn hóa Việt-Hàn, hai dân tộc đã có những sự gắn kết chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác giao lưu nhân dân và văn hóa phát triển sâu rộng. Hợp tác văn hóa, giáo dục giữa hai nước chưa bao giờ phát triển sôi động như bây giờ, là chất keo gắn kết, làm sâu sắc hơn quan hệ hai nước.
Chúng tôi cho rằng, giao lưu nhân dân và hợp tác văn hóa giữa hai nước cần được đặt trong tầm nhìn dài hạn, với nhận thức chung lĩnh vực này vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực quan trọng cho phát triển và hội nhập quốc tế của cả hai nước, góp phần củng cố nền tảng, đồng thuận xã hội thuận lợi cho sự phát triển của quan hệ Việt-Hàn. Với ý nghĩa đó, hai nước cần tập trung vào một số định hướng sau:
Một là, tiếp tục nâng cấp các cơ chế, thỏa thuận hợp tác về văn hóa, giáo dục, ngôn ngữ với tầm nhìn dài hạn, nghiên cứu khả năng hình thành các cơ chế hợp tác văn hóa để hỗ trợ hiệu quả hơn hợp tác sáng tạo, bảo tồn di sản văn hóa, tổ chức các hoạt động giao lưu nghệ thuật và đào tạo nhân lực văn hóa chất lượng cao.
Hai là, các cơ sở văn hóa hai nước tăng cường giao lưu, trao đổi sâu rộng hơn. Việt Nam sẽ thành lập Trung tâm Văn hóa Việt Nam ở Hàn Quốc. Chúng tôi khuyến khích Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm và ứng dụng các mô hình sáng tạo dựa trên công nghệ mới, hỗ trợ các địa phương Việt Nam trong quy hoạch phát triển du lịch và quảng bá du lịch chung thông qua giao lưu văn hóa và nghệ thuật.
Ba là, tiếp tục hỗ trợ cộng đồng kiều bào đang sinh sống, làm việc ở mỗi nước, quan tâm hơn nữa các thế hệ được sinh ra ở các gia đình Việt-Hàn.
Phóng viên: Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng chia sẻ về chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm tiếp tục câu chuyện thành công của nền kinh tế Việt Nam ngay cả trong thời đại bảo hộ thương mại?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Lịch sử đã chứng minh Việt Nam là một dân tộc giàu nghị lực và càng thách thức thì càng nỗ lực vươn lên. Càng trong bất ổn, bất định, Việt Nam càng giữ vững các nguyên tắc và mục tiêu chiến lược nhưng đồng thời phát huy khả năng thích ứng và linh hoạt trong đối sách.
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, chúng tôi tự hào đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã trở thành nền kinh tế có quy mô kinh tế đứng thứ 32 trên thế giới với GDP bình quân đầu người năm 2024 đạt 4.700 USD, tiếp cận ngưỡng thu nhập trung bình cao. Chỉ số phát triển con người nằm trong nhóm cao nhất trong số các nền kinh tế có cùng trình độ phát triển, đời sống người dân được nâng cao, an sinh xã hội được bảo đảm.
Là một nền kinh tế có độ mở lớn, Việt Nam đang chịu tác động mạnh từ bối cảnh quốc tế diễn biến ngày càng phức tạp, đan xen, là những thách thức không nhỏ đối với sự phát triển. Nhưng chúng tôi nhìn nhận đây cũng là cơ hội để Việt Nam đổi mới mạnh mẽ tư duy, cách làm và mô hình phát triển. Muốn phát triển nhanh và bền vững, không thể đi theo lối mòn, phải dám nghĩ lớn, hành động lớn, thực hiện những cải cách lớn, với một tư duy mới, tầm nhìn mới, tâm thế mới và quyết tâm cao của toàn dân tộc. Thời gian qua, chúng tôi triển khai đồng bộ các định hướng chiến lược sau:
Thứ nhất, bộ máy chính trị các cấp đã được tinh gọn, mô hình chính quyền địa phương hai cấp đang được vận hành theo tinh thần "Tinh-Gọn-Mạnh-Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả", qua đó tạo ra không gian phát triển mới, tái cấu trúc hệ thống hạ tầng vùng, hình thành các chuỗi giá trị liên kết chặt chẽ hơn, tạo điều kiện hình thành các vùng kinh tế trọng điểm mới, thu hút đầu tư chiến lược
Thứ hai, công tác xây dựng và thi hành pháp luật từng bước được đổi mới nhằm bảo đảm hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi, minh bạch, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, kiến tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, từng bước tạo đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đây là nền tảng phát triển và lực đẩy chủ yếu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong kỳ nguyên mới của dân tộc Việt Nam.
Thứ tư, phát triển kinh tế tư nhân trở thành “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế quốc gia. Chúng tôi mong muốn các doanh nghiệp FDI liên kết sâu hơn với các doanh nghiệp trong nước, để Việt Nam thực sự trở thành đối tác phát triển chiến lược của các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc.
Thứ năm, đẩy mạnh hội nhập quốc tế để mở ra không gian phát triển mới cho đất nước; bảo đảm hội nhập toàn diện, sâu rộng, vẫn giữ vững độc lập, tự chủ trên cơ sở đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường, đối tác và nâng cao năng lực tự cường và khả năng thích ứng trước mọi biến động toàn cầu.
Chúng tôi có niềm tin mạnh mẽ rằng những cải cách sâu rộng, đồng bộ và toàn diện này sẽ là cơ sở để Việt Nam viết tiếp câu chuyện thành công trong giai đoạn phát triển chiến lược sắp tới. Việt Nam rất mong Hàn Quốc tiếp tục cùng đồng hành trong chặng đường phát triển đó.
Phóng viên: Việt Nam có quan hệ hữu nghị với tất cả các cường quốc trên thế giới, bao gồm Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ. Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng chia sẻ bí quyết đằng sau chính sách ngoại giao thành công của Việt Nam là gì?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Tôi cho rằng chính sách đối ngoại của mỗi nước đều có những lối đi phù hợp với tình hình và điều kiện mỗi nước. Với chúng tôi, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Việt Nam luôn kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Ngay từ những ngày đầu của nền độc lập, Việt Nam đã gửi thư đến Liên hợp quốc bày tỏ mong muốn làm bạn với tất cả các nước, “thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trên mọi lĩnh vực”. Đây là “bản tuyên ngôn” chính sách ngoại giao đầu tiên sau khi Việt Nam giành được độc lập, tự do.
Đến nay, chính sách này được giữ vững và hoàn thiện hơn. Trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi, chúng tôi thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước, đồng thời luôn nỗ lực làm mới, đa dạng hóa các kênh hợp tác trên mọi lĩnh vực, kiến tạo mạng lưới hợp tác đan xen nhiều tầng nấc. Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, Việt Nam chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc; giải quyết mọi bất đồng, khác biệt thông qua đối thoại, hợp tác; đề cao chủ nghĩa đa phương, tích cực đóng góp cho môi trường hòa bình, ổn định của các khu vực và trên toàn thế giới.
Nhờ đó, đến nay Việt Nam đã có quan hệ từ đối tác chiến lược trở lên với tất cả các nước lớn. Chúng tôi cũng rất coi trọng việc thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các đối tác quan trọng khác và bạn bè truyền thống để kiến tạo cục diện đối ngoại rộng mở, thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước. Chúng tôi tự hào với những nền tảng và giá trị cốt lõi đó để xây đắp tin cậy chính trị và quan hệ hữu nghị của Việt Nam với các nước đối tác, bạn bè.
Là quốc gia yêu chuộng hòa bình, tự lực, tự cường đứng lên từ trong gian khó, chúng tôi nhất quán chính sách quốc phòng “bốn không”: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Lập trường này giúp chúng tôi xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược với mọi đối tác, đồng thời qua đó đóng góp cho hòa bình, ổn định và hợp tác ở trong khu vực và trên thế giới.
Phóng viên: Việt Nam vừa qua đã thực hiện cuộc tái cấu trúc quy mô lớn nhất. Việc cải cách bộ máy trên quy mô lớn như vậy không bao giờ là dễ dàng. Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng chia sẻ bối cảnh, mục đích và những kết quả ban đầu của công cuộc này?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Chúng tôi xác định rõ muốn phát triển nhanh và bền vững đồng nghĩa với việc phải dám nghĩ lớn, hành động lớn, với một tư duy mới, tầm nhìn mới, tâm thế mới. Cả hệ thống chính trị của Việt Nam đã vào cuộc với quyết tâm cao độ, nỗ lực vượt bậc và hành động quyết liệt, đồng bộ. Chúng tôi thực hiện các bước đi thận trọng, có trọng tâm trọng điểm, làm đến đâu chắc đến đó, việc gì rõ thì làm ngay, việc gì mới hoặc chưa có tiền lệ thì mạnh dạn thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không chủ quan nóng vội. Trên hết, chúng tôi có được sự đoàn kết đồng lòng, nỗ lực mạnh mẽ nhất của nhân dân, của toàn dân tộc.
Những kết quả bước đầu là hết sức tích cực. Các địa phương đã kịp thời kiện toàn bộ máy và ổn định hoạt động đồng bộ, thông suốt ngay từ những ngày đầu, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, phục vụ người dân tốt hơn, thuận tiện hơn. Quá trình sắp xếp, tinh gọn lại bộ máy đang từng bước giúp Việt Nam tăng nguồn lực, mở rộng không gian cho phát triển. Việc sáp nhập giúp chúng tôi nâng cao tính đồng bộ trong quy hoạch vùng và phát huy tốt hơn tiềm năng của mỗi địa phương và giảm áp lực cho ngân sách.
Cũng chính nhờ chính sách này, chúng tôi có thêm nguồn tiết kiệm quan trọng để thực thi các chính sách an sinh xã hội như miễn học phí cho học sinh từ mầm non đến hết lớp 12 và từng bước hướng tới miễn viện phí toàn dân. Những kết quả này đã và đang tạo tiền đề thuận lợi để Việt Nam tiếp tục tối ưu hóa các nguồn lực quốc gia, hoàn thiện tổ chức bộ máy, tổ chức lại không gian phát triển kinh tế-xã hội để kiến tạo các động lực tăng trưởng mới cho cả nước và chăm lo tốt hơn đời sống của nhân dân.
Việt Nam đang đứng trước thời điểm bước ngoặt, có tính quyết định để hiện thực hóa hai mục tiêu phát triển lớn. Đến năm 2030 kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao. Để thực hiện được hai mục tiêu lớn này, chúng tôi hiểu rằng con đường phía trước còn dài và nhiều thử thách, chông gai.
Tuy nhiên, với sự quyết tâm, bản lĩnh của các nhà lãnh đạo đất nước, cộng đồng doanh nghiệp và quan trọng nhất là sự đồng lòng, ủng hộ của người dân, của bạn bè quốc tế và các đối tác, Việt Nam sẽ quyết tâm, nỗ lực hết sức để xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng tôi đã từng mong ước.