Nuôi trồng thủy sản được định hướng là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đặt ra một số mục tiêu, như: Duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản 3-4%/ năm; tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 7 triệu tấn, giải quyết việc làm cho khoảng 3,5 triệu lao động… Đến năm 2045, thủy sản sẽ là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững, có trình độ quản lý, khoa học-công nghệ tiên tiến; Việt Nam trở thành nước có sản lượng sản xuất và xuất khẩu thủy sản top 3 thế giới…
Theo thống kê của Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), từ năm 2018 đến nay, sản phẩm nuôi trồng thủy sản của nước ta tăng trưởng ổn định từ 4,1 triệu tấn lên tới 5,7 triệu tấn (2024), đạt kim ngạch 10,07 tỷ USD. Năm nay, với 1,3 triệu ha nuôi nội địa và 9,7 triệu m2 nuôi lồng biển, dự báo sản lượng nuôi trồng thủy sản có sự tăng trưởng nhẹ so với năm 2024.
Để phát triển nghề nuôi trồng thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cần thiết phải ứng dụng khoa học-công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Trong đó, thiết bị giám sát chất lượng nước là một trong những thành phần không thể thiếu để thay thế cho các phương pháp truyền thống hiện có. Một số nước có nghề nuôi trồng thủy sản phát triển trên thế giới rất coi trọng việc quan trắc chất lượng nước. Tuy nhiên, mỗi nước lại có quy định khác nhau.
Thí dụ, Thái Lan giao cho Cục Nghề cá thực hiện đối với toàn bộ vùng nuôi; các nước châu Đại Dương ban hành quy trình kiểm soát chất lượng nước và kiểm soát nghiêm ngặt; một số nước châu Âu giao việc kiểm soát cho các chủ nuôi, coi đó như là một phần trong báo cáo và xử lý môi trường…
Tại Việt Nam, đã có một số doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản sử dụng thiết bị công nghệ cao trong sản xuất, theo dõi và kiểm soát chất lượng nước, như thiết bị E-Sensor Aqua của công ty công nghệ Eplusi; TC Check của TC Group; e-Aqua của Trung tâm Phát triển công nghệ và thiết bị Sài Gòn (Cenintec). Nhiều vùng nuôi trồng thủy sản lớn cũng hợp đồng với doanh nghiệp quan trắc để theo dõi chất lượng nước ao nuôi…
Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là hệ thống giám sát chất lượng nước nuôi trồng thủy sản do Viện Công nghệ thông tin (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) chủ trì nghiên cứu, phát triển với đầy đủ những tính năng nổi bật, toàn diện.
Theo Tiến sĩ Phạm Ngọc Minh, Viện Công nghệ thông tin, sự ra đời hệ thống kiểm soát chất lượng nước là kết quả nhiều năm làm việc nghiêm túc của nhóm nghiên cứu. Hệ thống này sử dụng nền tảng ứng dụng IoT kết hợp thiết bị kỹ thuật hiện đại, bảo đảm tính ưu việt và hiệu quả đối với ngành nuôi trồng thủy sản ở nước ta. Sản phẩm đã được thử nghiệm và được Trung tâm Phân tích và Môi trường (CAE) cấp giấy chứng nhận hiệu chuẩn số CAE25HC12711, ngày 27/10/2025.
Hệ thống IoT giám sát chất lượng nước gồm 5 phần chính: Khối nguồn, cung cấp điện vào (220VAC/50Hz) - ra (24VDC/12VDC) cho hệ thống; khối xử lý với Module xử lý dữ liệu trung tâm tích hợp cổng vào - ra số; màn hình hiển thị; Module 4G và Module truyền thông không dây.
Về cơ chế hoạt động, sau khi được lắp đặt, máy chủ kết nối với các trạm thu thập dữ liệu và tự động phân tích các mẫu nước, từ đó phát hiện những bất thường và cảnh báo đến người nuôi nguy cơ có thể xảy ra. Ngoài ra, hệ thống còn tích hợp, lưu trữ, thống kê, quản lý dữ liệu trong khoảng thời gian dài để giúp người dùng theo dõi xu hướng chất lượng nước theo thời gian.
Về giao diện tương tác với người dùng, hệ thống hiển thị dữ liệu quan trắc dưới dạng số liệu, đồ thị và bảng biểu trực quan rất dễ sử dụng. Nó cũng có thể cùng lúc thực hiện quan trắc đối với nhiều ao nuôi thủy sản, cho phép áp dụng trên quy mô sản xuất lớn. Ngoài bảng số liệu hiển thị trên màn hình chính, hệ thống có thể gửi thông số, dữ liệu cảnh báo tới số điện thoại người dùng đăng ký qua các module không dây.
Kết quả thử nghiệm cho thấy, hệ thống IoT giám sát chất lượng nước rất hữu ích, nhất là đối với những vùng chuyên canh nuôi trồng thủy sản tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn do ô nhiễm hoặc dễ phát sinh mầm bệnh.
Kết quả thử nghiệm cho thấy, hệ thống IoT giám sát chất lượng nước rất hữu ích, nhất là đối với những vùng chuyên canh nuôi trồng thủy sản tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn do ô nhiễm hoặc dễ phát sinh mầm bệnh.
Tiến sĩ Ngô Duy Tân (Trung tâm Vũ trụ Việt Nam), thành viên nhóm nghiên cứu khẳng định, hệ thống IoT giúp tự động hóa quá trình theo dõi chất lượng nước, giảm thiểu rủi ro và tăng hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và tối ưu hóa hoạt động nuôi trồng thủy sản. Hệ thống này có tiềm năng là công cụ quan trọng trong hoạt động nuôi trồng thủy sản bền vững của Việt Nam.
Mặc dù hệ thống giám sát chất lượng nước nuôi trồng thủy sản đã được chứng minh tính ưu việt qua các thí nghiệm và thử nghiệm, nhưng cần được kiểm nghiệm nhiều hơn về độ bền và độ thích ứng đối với nhiều vùng nước, kiểu loại, mô hình nuôi trồng thủy sản khác nhau. Điều đó đòi hỏi nguồn kinh phí không nhỏ cũng như sự hỗ trợ từ chính sách, truyền thông và đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong ngành nuôi trồng thủy sản.