Trồng vải thiều Việt Nam giữa sa mạc – kỳ tích của một trang trại Israel

Trồng vải thiều Việt Nam giữa sa mạc – kỳ tích của một trang trại Israel

Cuối tháng 6 đầu tháng 7/2025, khi làn gió Địa Trung Hải bắt đầu tràn về các triền đồi phía Bắc Israel, mang theo cái nắng vàng rực rỡ và vị mặn của biển, cũng là lúc những chùm vải đầu mùa chín đỏ rực trên cánh đồng rộng gần 10 hécta ở ngoại ô thành phố HaBonim.

Trên trang trại hiện đại của Hợp tác xã nông nghiệp Bananot Hahof, mùa vải thiều bước vào thời khắc sôi động nhất năm – một mùa thu hoạch không chỉ rộn ràng mà còn là minh chứng cho hành trình gần 10 năm kiên cường chinh phục thiên nhiên của con người.

Theo phóng viên TTXVN tại Israel, Uri Shpatz, trưởng nhóm nông học của Bananot Hahof - đơn vị hiện đang triển khai trồng giống vải thiều Hong Long (Hồng Long) hay còn gọi là giống vải U Hồng cùa Việt Nam từ năm 2016 – cho biết họ không phải là bên đầu tiên đưa giống vải Việt Nam vào quốc gia Trung Đông này.

Theo Uri, giống vải này được nhập khẩu vào Israel khoảng 15–18 năm trước bởi Hội những nhà trồng vải Israel cùng Viện Nghiên cứu Nông nghiệp ARO.

Những chùm vải đầu mùa chín đỏ rực trên cánh đồng rộng gần 10 ha ở ngoại ô thành phố HaBonim.
Những chùm vải đầu mùa chín đỏ rực trên cánh đồng rộng gần 10 ha ở ngoại ô thành phố HaBonim.

Sau khi trồng, các vườn vải bắt đầu cho thu hoạch từ năm thứ 4 và đạt sản lượng tối đa sau khoảng 6–7 năm. Uri Shpatz cho biết: “Thông thường, khi đưa một giống cây mới vào trồng tại khu vực khác, phải mất vài năm để điều chỉnh quy trình canh tác phù hợp với điều kiện khí hậu và đất đai".

Anh Uri Shpatz, trưởng nhóm nông học của Bananot Hahof - hợp tác xã đang triển khai trồng giống vải thiều Hong Long (Hồng Long) hay còn gọi là giống vải U Hồng cùa Việt Nam từ năm 2016.
Anh Uri Shpatz, trưởng nhóm nông học của Bananot Hahof - hợp tác xã đang triển khai trồng giống vải thiều Hong Long (Hồng Long) hay còn gọi là giống vải U Hồng cùa Việt Nam từ năm 2016.

Ngay từ những ngày đầu, dự án đã gặp nhiều khó khăn: đất đai khô cằn, lượng mưa thấp, nhiệt độ biến động mạnh – tất cả đều đi ngược lại với điều kiện lý tưởng của cây vải. Giống cây này vốn nổi tiếng là “khó chiều”: sinh trưởng chậm, chu kỳ ra hoa kéo dài, cực kỳ nhạy cảm với nhiệt độ, độ ẩm và cả cách cắt tỉa.

Đội ngũ kỹ sư nông nghiệp của Bananot Hahof đã kiên trì thử nghiệm, điều chỉnh kỹ thuật từng chút một: từ hệ thống tưới nhỏ giọt, điều hòa vi khí hậu, đến cách xử lý ra hoa theo chu kỳ đặc biệt. Sau 3-4 năm, những chùm vải đầu tiên bắt đầu xuất hiện ổn định.

Theo Uri Shpatz, "giống vải Hong Long dần thích nghi và ít cần can thiệp kỹ thuật hơn so với giống vải Mauritius mà chúng tôi từng trồng trước đây”. Giống vải Hong Long cũng được đánh giá cao nhờ sức sống mạnh, cho năng suất cao, quả to, và tỷ lệ thịt trên hạt vượt trội. Niềm tin vào giống cây vải từ Việt Nam giờ đã được đền đáp xứng đáng.

Giờ đây, nhờ vào cảm biến vi khí hậu và công nghệ nông nghiệp chính xác, mỗi khu vực trên trang trại đều được điều chỉnh tối ưu hóa về độ ẩm, ánh sáng và nhiệt độ. Cây vải không chỉ sống được, mà còn ra hoa đều, kết trái rộ. Năng suất hiện tại đạt 25 tấn/ha – một con số đáng kinh ngạc đối với loài cây vốn chỉ quen thuộc với thổ nhưỡng Việt Nam.

Những chùm vải đầu mùa chín đỏ rực trên cánh đồng rộng gần 10 ha ở ngoại ô thành phố HaBonim.
Những chùm vải đầu mùa chín đỏ rực trên cánh đồng rộng gần 10 ha ở ngoại ô thành phố HaBonim.

Từ cuối tháng 6 đến giữa tháng 7, trang trại như khoác lên chiếc áo rực rỡ, đỏ rực màu vải chín. Từng tốp công nhân thoăn thoắt hái quả, phân loại ngay tại chỗ. Vải được đóng gói cẩn thận trong ngày, vận chuyển bằng xe lạnh về Tel Aviv, Haifa, Jerusalem, và cả các siêu thị châu Âu.

Uri cho biết về tỷ lệ xuất khẩu, con số thay đổi tùy theo từng năm, tùy thuộc vào nhu cầu và nguồn cung nội địa: “Nếu thị trường trong nước có nhiều trái cây, chúng tôi sẽ ưu tiên xuất khẩu nhiều hơn – đôi khi phần lớn sản lượng được đưa ra nước ngoài. Nhưng cũng có năm, phần lớn sản lượng được giữ lại tiêu thụ nội địa nếu giá bán trong nước cao hơn so với thị trường xuất khẩu.

“Khách hàng ở châu Âu mê mẩn vải thiều vì hương thơm tự nhiên và vị ngọt thanh đặc trưng”, Uri chia sẻ.

“Nhưng vì trái vải có vòng đời rất ngắn sau khi hái, nên khâu hậu cần phải cực kỳ khắt khe – không có chỗ cho sai sót. Các thị trường chính nhập khẩu vải từ Israel là các quốc gia Tây Âu như Đức, Pháp, Anh, Hà Lan và Italia".

Ngoài quả vải, Bananot Hahof còn là cái tên nổi bật trong ngành trồng chuối, dứa, nho... – những loại cây truyền thống của vùng. Bananot Hahof chủ yếu hợp tác với các nhà cung cấp hàng đầu của Israel như Netafim, Rivulis, Metzer... Phần lớn giống chuối và dứa được nhập từ Ginosar Agro, và một phần từ Rahan Meristems. Điều đặc biệt là năng suất nho tại trang trại của Bananot Hahof đạt tới 30 tấn/ha – và được đánh giá là một trong những loại nho ngon nhất thế giới.

Cùng với vải thiều, trang trại Bananot Hahof còn trồng một trong những loại nho ngon nhất thế giới, năng suất đạt tới 30 tấn/ha.
Cùng với vải thiều, trang trại Bananot Hahof còn trồng một trong những loại nho ngon nhất thế giới, năng suất đạt tới 30 tấn/ha.

Bananot Hahof là hình mẫu tiêu biểu cho mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới tại Israel – nơi truyền thống nông nghiệp hòa quyện với đổi mới sáng tạo. Họ không chỉ sản xuất, mà còn đầu tư mạnh vào R&D: cải tiến kỹ thuật tưới tiêu, kiểm soát vi khí hậu bằng dữ liệu, và tối ưu hóa mọi khâu từ trồng đến phân phối.

Dù chi phí đầu tư ban đầu rất lớn, nhưng kết quả thu được là những mùa quả chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe nhất của thị trường nội địa và xuất khẩu. Đây không chỉ là một trang trại – mà là minh chứng cho sức mạnh của sự đổi mới, bền bỉ và tầm nhìn dài hạn trong nông nghiệp hiện đại.

Xem thêm