Đó là thông tin tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam-EU năm 2025 do Bộ Công thương phối hợp Đại sứ quán các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) đã tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh mới đây.
Đáng mừng nhưng chưa như kỳ vọng
Phát biểu tại Diễn đàn, Thứ trưởng Công thương Phan Thị Thắng cho biết: Diễn đàn năm nay đánh dấu một cột mốc đặc biệt, kỷ niệm 5 năm EVFTA chính thức có hiệu lực (1/8/2020). Sau 5 năm triển khai, trong bối cảnh thị trường bất lợi, chuỗi cung ứng và kinh tế toàn cầu gặp nhiều khó khăn, EVFTA đã phát huy vai trò đòn bẩy tích cực trong việc duy trì và phát triển quan hệ kinh tế nói chung và thương mại song phương nói riêng giữa Việt Nam và EU.
Theo số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, sau 5 năm thực thi EVFTA, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU liên tục tăng: Từ 48,9 tỷ USD năm trước khi Hiệp định có hiệu lực lên gần 78 tỷ USD vào năm thứ 5 Hiệp định có hiệu lực, với mức tăng trưởng bình quân 10,1%/năm. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta sang EU tăng bình quân 11,7%/năm, nhập khẩu từ thị trường EU tăng bình quân 6,1%/năm. EU hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 và nhập khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam, và Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của EU tại khu vực Đông Nam Á.
Cùng với đó, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang EU cũng chuyển dịch tích cực theo hướng đa dạng. Bên cạnh các nhóm hàng hóa chủ lực như điện thoại di động và linh kiện, điện tử, máy vi tính, dệt may, da giày…, nhiều mặt hàng công nghiệp và nông sản có giá trị gia tăng cao cũng tăng trưởng ở mức hai con số như chất dẻo, hóa chất, hạt tiêu (tăng hơn 3,6 lần), cà-phê (tăng 3,2 lần), gạo và rau quả (tăng 2,4 lần)… so với trước khi EVFTA có hiệu lực.
Không những vậy, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam còn từng bước hiện diện và tăng trưởng khá ở những thị trường “ngách” như khu vực Bắc Âu, Nam Âu Đông Âu; bên cạnh những địa bàn trọng điểm như Đức, Hà Lan, Italy, Bỉ, Tây Ban Nha.
Theo bà Phan Thị Thắng, những kết quả này cho thấy hàng hóa Việt Nam đã tận dụng hiệu quả ưu đãi thuế quan, khẳng định được năng lực cạnh tranh tại EU - thị trường khó tính hàng đầu thế giới. Chính sách ưu đãi, cắt giảm thuế quan theo EVFTA đã góp phần đáng kể giúp cả nền kinh tế Việt Nam và EU nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị phần hàng hóa tại thị trường của đôi bên. Qua đó cũng cho thấy nhu cầu tiêu thụ hàng hóa Việt Nam tại khu vực EU vẫn còn rất lớn; và sẽ còn nhiều cơ hội tăng trưởng trong thời gian tới, khi EVFTA tiếp tục lộ trình thực thi với mức thuế quan ưu đãi hơn.
Hướng đến chuẩn mực quốc tế
Theo các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp, để mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại châu Âu, doanh nghiệp nước ta cần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh, tuân thủ tiêu chuẩn ESG (Môi trường-Xã hội-Quản trị), truy xuất nguồn gốc và đạt chứng nhận bền vững theo quy định của EU.
Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển thương hiệu quốc gia và xúc tiến thương mại số qua các nền tảng xuyên biên giới. Việc kết nối trực tiếp với chuỗi phân phối lớn, đầu tư logistics hiện đại và hợp tác với doanh nghiệp EU trong khâu thiết kế, bao bì, tiêu chuẩn kỹ thuật cũng là hướng đi hiệu quả để nâng cao vị thế của hàng hóa Việt Nam tại thị trường này.
Bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng: EU ưu đãi thuế quan nhưng kèm theo những điều kiện ràng buộc rất cao về kỹ thuật và phát triển bền vững. Trong khi đó, hiểu biết và nhận thức về các “tiêu chuẩn xanh” của doanh nghiệp thủy sản còn khá thấp; và chi phí tuân thủ cũng rất cao, nhất là với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do vậy, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính xanh hoặc giảm thuế cho các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh, phát triển bền vững.
Còn ông Johan Van Den Ban, Tổng Giám đốc Tập đoàn De Heus (Hà Lan) khu vực Việt Nam và châu Á, cho biết: Người tiêu dùng châu Âu ngày nay không những quan tâm đến chất lượng hàng hóa, mà còn đòi hỏi tính minh bạch về nguồn gốc, xuất xứ, quá trình sản xuất-kinh doanh có đạo đức và trách nhiệm với môi trường... Riêng ở lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm, các yếu tố an toàn thực phẩm, phúc lợi động vật và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu hàng đầu. Cùng với đó, các đối tác châu Âu cũng đang điều chỉnh chiến lược thu mua hàng hóa theo hướng phù hợp với tiêu chuẩn ESG và các quy định mới của EU như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) hay Quy định chống mất rừng (EUDR). Do vậy, doanh nghiệp cần nhanh chóng thích ứng với xu thế phát triển xanh và bền vững để có chỗ đứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, để chuyển đổi xanh cũng như phát triển bền vững, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và EU cần thống nhất các “tiêu chuẩn xanh” và bền vững cùng lộ trình thực hiện phù hợp với điều kiện của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam; cùng sự hỗ trợ thêm về tài chính, chuyển giao công nghệ, xúc tiến thương mại.
Thứ trưởng Phan Thị Thắng cho biết: Để giúp doanh nghiệp tận dụng tốt hơn các cơ hội mà EVFTA mang lại và mở rộng thị phần tại châu Âu, Nhà nước sẽ tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển bền vững và đổi mới mô hình tăng trưởng, đáp ứng các tiêu chuẩn ESG của EU. Việt Nam mong muốn các đối tác châu Âu tích cực chia sẻ, hỗ trợ về kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ, tài chính… trong quá trình chuyển đổi xanh.