Quốc hội thông qua Luật Chuyển đổi số: Hoàn thiện khung pháp lý cho quốc gia số

Luật Chuyển đổi số là luật khung, kết nối, thống nhất các luật chuyên ngành (như: Luật Dữ liệu, Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Thương mại điện tử, Luật An ninh mạng...) tạo thành bức tranh tổng thể về một quốc gia số.

Sáng 11/12, Quốc hội đã thông qua Luật Chuyển đổi số với 433/442 đại biểu Quốc hội có mặt biểu quyết tán thành, bằng 91,54% tổng số đại biểu Quốc hội. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2026.

Luật Chuyển đổi số gồm 8 chương và 48 điều quy định nguyên tắc, chính sách về chuyển đổi số; điều phối quốc gia về chuyển đổi số; biện pháp bảo đảm chuyển đổi số; chính phủ số; kinh tế số, xã hội số; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong chuyển đổi số.

Các nội dung thuộc lĩnh vực dữ liệu, giao dịch điện tử, an ninh mạng, viễn thông, trí tuệ nhân tạo và các lĩnh vực chuyên ngành khác được thực hiện theo pháp luật tương ứng, nhưng phải bảo đảm thống nhất với nguyên tắc và yêu cầu quy định tại Luật này.

Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật trước khi Quốc hội bấm nút biểu quyết, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, Luật Chuyển đổi số được xây dựng theo mô hình "luật khung" - quy định các nguyên tắc, yêu cầu và định hướng lớn, không đi sâu vào các quy định thuộc phạm vi điều chỉnh của luật chuyên ngành nhưng giữ vai trò tạo sự thống nhất trong cách thức tổ chức, điều phối quá trình chuyển đổi số trên phạm vi cả nước.

202512110927243001-z7314595378718-57e68002103fb11e6edd49adc1d1f648-2141.jpg
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng. (Ảnh: DUY LINH)

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, một trong những nội dung quan trọng nhất của dự thảo Luật là lần đầu tiên luật hóa các khái niệm nền tảng về chuyển đổi số - từ chuyển đổi số, hệ thống số, dữ liệu số, hạ tầng số, nền tảng số đến Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Chính phủ đã tiếp thu và chỉnh lý sâu sắc các định nghĩa này nhằm bảo đảm tính chặt chẽ về mặt khoa học, đồng thời thống nhất cách hiểu cho toàn bộ hệ thống chính trị và các chủ thể tham gia chuyển đổi số.

Điểm nhấn của dự thảo là làm rõ sự khác biệt giữa chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin: Nếu ứng dụng công nghệ thông tin chỉ chuyển hoạt động cũ lên môi trường số, thì chuyển đổi số là thay đổi cách thức vận hành, mô hình quản trị và phương thức cung cấp dịch vụ. Đây được coi là triết lý cốt lõi của luật, thể hiện tinh thần "chuyển đổi trước - số hóa sau".

Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống khái niệm, dự thảo Luật quy định rõ các công cụ quản trị vĩ mô như Chương trình chuyển đổi số quốc gia, Khung kiến trúc quốc gia số, Khung quản trị dữ liệu, Khung năng lực số và Bộ chỉ số đo lường chuyển đổi số quốc gia. Những công cụ này được ví như "bộ điều phối trung tâm", giúp Nhà nước đánh giá tiến độ, thúc đẩy thực thi và bảo đảm tính đồng bộ giữa chuyển đổi số ở cấp quốc gia, cấp bộ ngành và địa phương. "Việc luật hóa các khung này sẽ tạo sự thống nhất trong tổ chức triển khai, tránh tình trạng đầu tư phân tán, mỗi địa phương làm một kiểu như thời gian vừa qua", đại diện Chính phủ khẳng định.

202512110929165854-z7314601149405-ed8ab60074570f0d3951b284e73b9b5c.jpg
Kết quả biểu quyết thông qua Luật Chuyển đổi số. (Ảnh: DUY LINH)

Liên quan đến thiết kế và kiến trúc số, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã bổ sung các quy định bắt buộc về thiết kế hệ thống theo hướng "mặc định kết nối, mặc định chia sẻ, mặc định an toàn". Theo đó, các hệ thống số phải ưu tiên sử dụng điện toán đám mây, nền tảng dùng chung và dữ liệu khai báo một lần; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước là yêu cầu mặc định chứ không phải ngoại lệ; nguyên tắc bảo đảm an toàn, an ninh mạng phải được áp dụng ngay từ khâu thiết kế. Đây là những nguyên tắc có tác dụng khắc phục triệt để tình trạng "mạnh ai nấy làm", đồng thời tiết kiệm chi phí đầu tư, vận hành và bảo trì.

Đối với các dự án chuyển đổi số chưa có tiền lệ, thường gặp khó khăn trong việc xác định tổng mức đầu tư và lựa chọn mô hình triển khai, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết dự thảo Luật đã bổ sung cơ chế phát triển thử nghiệm với nguồn kinh phí độc lập và cơ chế lựa chọn đối tác để thử nghiệm giải pháp trước khi triển khai dự án đầu tư chính thức. Đây được coi là bước đi quan trọng để giảm rủi ro, tránh lãng phí ngân sách, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực mới như dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo.

Một nội dung nổi bật khác trong dự thảo Luật là chính sách thu hẹp khoảng cách số, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Dự thảo quy định nguyên tắc ưu tiên nguồn lực để những khu vực này đạt mức độ hạ tầng đáp ứng được các dịch vụ số thiết yếu như học trực tuyến, khám chữa bệnh từ xa, dịch vụ công trực tuyến. Đồng thời, với việc kinh tế số được coi là động lực tăng trưởng mới, dự thảo cũng bổ sung cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng nền tảng số, tham gia vào chuỗi giá trị kinh tế số với kỳ vọng đóng góp tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tới.

Xem thêm