Chiếc bình gốm hoa lam cổ Chu Ðậu cao 54 cm hiện trưng bày tại Bảo tàng quốc gia Tokapi Saray ở Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ), ở quanh vai có 13 chữ Hán: Thái Hòa bát niên - Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút. (dịch: Năm Thái Hòa thứ tám (1450), tại châu Nam Sách, người thợ Bùi Thị Hý viết).
Chiếc bình hoa lam cổ Chu Ðậu này rất đẹp, được bảo hiểm một triệu USD.
Năm 1980 ông Anabuki, nguyên Bí thư Ðại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, sau khi về Bộ Ngoại giao Nhật Bản, đi công cán tại Thổ Nhĩ Kỳ, thấy chiếc bình gốm hoa lam này trưng bày trong Bảo tàng quốc gia Tokapi Saray ở Istanbul đã viết thư cho đồng chí Ngô Duy Ðông, lúc đó là Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (Hải Dương - Hưng Yên sát nhập) đề nghị cho biết:
- Bà Bùi Thị Hý là người học làm đồ gốm ở đâu và di tích lò đó hiện ở chỗ nào? Nam Sách châu ở thế kỷ 15 là vùng đất nào của huyện Nam Thanh hiện nay? (lúc đó huyện Nam Sách và Thanh Hà của Hải Dương sát nhập thành huyện Nam Thanh - NV). Ðề nghị được liên hệ với các nhà khảo cổ học và mỹ thuật học để cùng tìm hiểu về lò gốm cổ này.
Ông Ngô Duy Ðông đã chuyển bức thư trên cho Ty Văn hóa Hải Hưng và Ty Văn hóa Hải Hưng lại chuyển thư cho ông Tăng Bá Hoành đang làm công tác khảo cổ học trong tỉnh. Ông Tăng Bá Hoành đã viết bài "Quá trình phát hiện, nghiên cứu, phát huy gốm Chu Ðậu" đăng trên tạp chí "Khoa học và ứng dụng" của "Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hải Dương" số 2-2005, nêu vấn đề như thư của ông Anabuki người Nhật.
Cuốn gia phả năm 1832 viết về lai lịch bà Bùi Thị Hý.
Tộc họ Bùi ở làng Quang Tiền, xã Ðồng Quang, huyện Gia Lộc, Hải Dương từ lâu đã lưu truyền có bà cô tổ trước đây làm đồ gốm đẹp và phát đạt, sau vì loạn lạc giặc tàn phá nên thất truyền. Dòng họ Bùi còn lưu giữ hai cuốn gia phả: Cuốn thứ nhất sao y bản cổ năm Nhâm Thìn (1832), viết bằng chữ Hán trên nền vải; cuốn thứ hai sao tóm tắt quyển gia phả thứ nhất vào năm 1932 (tức 100 năm sau), viết bằng chữ Hán trên giấy bản, trong đó ngoài việc ghi nhiều việc của họ còn có những trang viết về bà Bùi Thị Hý trước đây làm gốm ở Chu Ðậu, quê là thôn Quang Ánh, xã Ðồng Quang, huyện Gia Lộc, Hải Dương.
Ngoài hai cuốn gia phả, con cháu ngày nay còn sưu tầm được một số di vật nguồn gốc quê bà Hý có lò (ắc bàn xoay, con kê...). Ðọc bài báo của ông Tăng Bá Hoành ở tạp chí Khoa học và ứng dụng Hải Dương 2-2005, con cháu của bà Bùi Thị Hý đã mang hai cuốn gia phả của họ cho ông Tăng Bá Hoành, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hải Dương, hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Sử học Việt Nam, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương dịch xem đó có phải bà Bùi Thị Hý như ông Anabuki người Nhật nói trong thư ông gửi ông Ngô Duy Ðông hay không.
Ông Tăng Bá Hoành đã dịch tóm tắt nội dung gia phả họ Bùi ở Quang Ánh và bà Bùi Thị Hý như sau: (báo Hải Dương cuối tuần, số 304 ngày 22-6-2006) với bài: "Dấu hỏi qua 20 năm về gốm Chu Ðậu đã được trả lời".
"Thủy tổ là cụ Bùi Ðình Nghĩa, con tướng quân Bùi Quốc Hưng, (một trong 18 vị tướng dự Hội thề Lũng Nhai năm 1418), sinh năm Xương Phù 11 (1387), nguyên quán làng Cống Khê, huyện Chương Ðức, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Cống Thượng, xã Hồng Sơn, huyện Mỹ Ðức, tỉnh Hà Tây). Năm Hưng Khánh thứ nhất (1407) cụ Nghĩa di cư về thôn Quang Ánh (nay là Quang Tiền, Ðồng Quang, Gia Lộc, Hải Dương). Tại đây cụ Nghĩa sinh hai người con, con cả là Bùi Thị Hý (sinh năm 1420), con thứ là Bùi Ðình Khởi (sinh năm Quý Mùi 1423). Cụ Nghĩa là người có chí lớn, dũng cảm và mưu lược nổi tiếng đương thời, tham gia nghĩa quân Lam Sơn, hy sinh trong một trận hỗn chiến ở thành Ðông Quan. Sau chiến thắng giặc Minh được Lê Lợi ban 55 mẫu ruộng lộc điền. Cụ trở thành thủy tổ của dòng họ Bùi ở trang (làng) Quang Ánh.
Người con gái trưởng của cụ là một phụ nữ tài năng, văn hay, chữ tốt, lại có biệt tài về họa. Bà đã giả trai thi đến tam trường, khi phát giác bị đuổi khỏi phòng thi. Bà lấy ông Ðặng Sỹ, một đại gia về đồ gốm ở làng Chu Nhẫm (tức Chu Ðậu), huyện Thanh Lam, châu Nam Sách. Bà là thợ biệt tài làm bình gốm. Năm Thái Hòa thứ 10 (1452) bà cùng chồng về Quang Ánh giúp em trai dựng lò gốm ở phía bắc trang, nơi gần sông Ðĩnh Ðào để giao thương với Chu Ðậu, làm đặc sản cống Hoàng triều và xuất cho thương nhân các nước như Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây. Từ đó họ Bùi làng Quang Ánh giàu mạnh không ngừng qua từng năm. Bà Hý không có con nên cuối đời về quê cha và mất tại đây năm 1499 (80 tuổi). Ðến khi đất nước đại loạn (chiến tranh Trịnh Mạc cuối thế kỷ 16, con cháu thất tán, không sản xuất được, phải cải họ đến ba bốn đời, nghề tổ thất truyền. Cuối gia phả có bài thơ chữ Nôm, tựa đề là "Vãn nghề xưa" (ông Hoành dịch đúng như bài thơ truyền miệng của dòng họ).
Sau khi dịch những trang gia phả trên, nhà sử học Tăng Bá Hoành nhận định: "Bà Bùi Thị Hý quê ở trang Quang Ánh, nay là thôn Quang Tiền, xã Ðồng Quang, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, sinh trưởng trong một gia đình trí thức phong kiến giàu có, cháu nội khai quốc công thần Bùi Quốc Hưng, là một phụ nữ có tài xuất chúng về văn chương, viết chữ đẹp, có biệt tài về họa, từng thi đỗ tam trường. Bà lấy ông Ðặng Sỹ, một đại gia sản xuất gốm sứ ở Chu Ðậu huyện Thanh Lâm, chuyên sản xuất gốm đặc biệt để tiến cống và xuất khẩu sang Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây. Bà đã cùng chồng và em trai là Bùi Khởi xây dựng một lò gốm tại quê vào năm 1452, liên kết với Chu Ðậu, từ đó gia đình phong lưu cường thịnh. Chữ Thái trong bình gốm hoa lam ở Thổ Nhĩ Kỳ mất dấu chấm dưới chữ Ðại đã làm phiền lòng nhiều học giả. Nay niên hiệu Thái Hòa ở đây cũng được khẳng định, các học giả không còn bận tâm về Thái Hòa hay Ðại Hòa nữa.
Gốm Chu Ðậu thất truyền do giặc tàn phá (Trịnh Tùng hủy diệt vùng Nam Sách năm 1593 khi tấn công nhà Mạc), từ đó nghề vinh của dòng họ này bị thất truyền. Những sự kiện trên hoàn toàn phù hợp với lịch sử và những gì đã nghiên cứu về gốm Chu Ðậu.
Ðương nhiên, bình gốm hoa lam cao 54 cm sản xuất năm Thái Hòa thứ tám (1450) lưu ở Thổ Nhĩ Kỳ từ những thế kỷ trước là tác phẩm của bà, hơn thế còn giữ bút tích của nghệ nhân.
Sự kiện này khẳng định gốm Chu Ðậu trước hết do người địa phương sản xuất, trong đó có vai trò phụ nữ mà điển hình là bà Bùi Thị Hý. Trên đây là một phát hiện quan trọng không chỉ về gốm Chu Ðậu mà còn của lịch sử gốm sứ Việt Nam".
Hiện nay hai cuốn gia phả của họ Bùi thôn Quang Tiền, xã Ðồng Quang vẫn còn lưu giữ. Mặc dù cuốn thứ nhất sao lại đã gần 175 năm, vải đã mục, chữ đã mờ, cuốn thứ hai sao lại cách đây 74 năm viết trên giấy bản đã ố vàng nhưng chữ vẫn còn đọc dịch được.