Trước các đại biểu của nhân dân, Đảng nêu lên chủ trương lãnh đạo quần chúng nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, đại hội nhiệt liệt tán thành và ủng hộ chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh:
1. Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập.
2. Võ trang nhân dân phát triển Quân Giải phóng Việt Nam.
3. Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tùy từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo.
4. Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ.
5. Ban bố những quyền của dân cho dân:
- Nhân quyền.
- Tài quyền (quyền sở hữu).
- Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền.
6. Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân.
7. Ban bố luật lao động; ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm.
8. Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở quốc gia ngân hàng.
9. Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hoá mới.
10. Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ.

Đại hội quyết định thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng chí Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch và các ủy viên gồm các đồng chí: Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Đang. Ban Thường trực gồm 5 đồng chí: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền. Ủy ban Dân tộc giải phóng được trao sứ mệnh: thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước.
Đồng thời, Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam ra lời hiệu triệu tới toàn thể nhân dân và các đoàn thể Cứu quốc. Hiệu triệu thông báo Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam đã ra đời, đáp ứng mong đợi của toàn thể đồng bào về “một Chính phủ quốc dân có đủ uy tín và thực lực”. Nó gồm những người xứng đáng nhất trong các đoàn thể Cứu quốc là cơ quan lãnh đạo tối cao của quốc gia để hành động cho kịp với sự chuyển biến rất mau lẹ của tình hình.
Hiệu triệu viết: “Nó sẽ thay mặt quốc dân Việt Nam và dựa trên thực lực của quốc dân để tranh lấy sự đồng tình của các nước Đồng minh dân chủ...”. Hiệu triệu kêu gọi đồng bào: “Ngày vĩ đại và quyết liệt của dân tộc ta đã đến. Chúng ta hãy vùng dậy tuốt gươm, lắp súng để định đoạt lấy số phận của mình. Chúng ta quyết thắng và sẽ thắng”.
Trong không khí cách mạng sôi sục trên khắp cả nước, cùng với thư kêu gọi đồng bào của đồng chí Hồ Chí Minh. Hiệu triệu của Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam đã tiếp thêm sức mạnh, thôi thúc nhân dân khắp bắc-trung-nam vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngay sau đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp-Ủy viên Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, chỉ huy một đơn vị Giải phóng quân, xuất phát từ Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Tại Hà Nội, sáng ngày 16/8, tại số nhà 101 phố Gămbétta (nay là Trần Hưng Đạo) đồng chí Nguyễn Khang-Thường vụ Xứ ủy, thay mặt Xứ ủy triệu tập một cuộc họp với Thành ủy, phổ biến nghị quyết của Xứ ủy về việc thành lập Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội (tức Ủy ban Khởi nghĩa). Cuộc họp nhất trí phải xúc tiến khởi nghĩa ở Hà Nội.
Các đồng chí tham gia cuộc họp đều thấy cần phải nắm chắc hơn nữa thái độ của Nhật và bọn bù nhìn; trước mắt nên đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động chính trị để động viên sâu rộng quần chúng đẩy mạnh việc chuẩn bị vũ trang. Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội được thành lập gồm 5 đồng chí: Nguyễn Khang, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy; Nguyễn Huy Khôi (tức Trần Quang Huy), cán bộ Xứ ủy; Lê Trọng Nghĩa, cán bộ Xứ ủy; Nguyễn Quyết, Bí thư Thành ủy; Nguyễn Duy Thân, Thành ủy viên.
Ngay trong đêm, các rạp hát Hiệp Thành, Quảng Lạc, Tố Như, các rạp chiếu bóng Êđen, Majestic, các Đội tuyên truyền xung phong Việt Minh đứng lên diễn thuyết. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên đường phố Hà Nội.

Tại Quảng Ngãi, trong đêm lực lượng khởi nghĩa chiếm dinh tỉnh trưởng và các công sở, bắt tỉnh trưởng bố chánh, thu toàn bộ tài liệu, vũ khí. Toàn bộ chính quyền bù nhìn cấp tỉnh ở Quảng Ngãi bị đập tan. Một tiểu đoàn quân Nhật đóng ở thị xã không có phản ứng gì. Quảng Ngãi là một trong những địa phương giành chính quyền sớm nhất trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tại Nam Kỳ, tối 16/8, Xứ ủy triệu tập Hội nghị mở rộng tại Chợ Đệm (tỉnh Chợ Lớn) bàn về vấn để khởi nghĩa. Đại đa số đại biểu tham dự hội nghị cho rằng điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, nếu không nổi dậy sẽ bỏ lỡ thời cơ. Một số đồng chí không tán thành khởi nghĩa vì cho rằng Nhật sẽ theo lệnh Đồng minh đàn áp cách mạng...
Sau khi tranh luận thẳng thắn, với tinh thần thận trọng, hội nghị quyết định: xúc tiến việc hoàn thiện chuẩn bị khởi nghĩa sẵn sàng chờ tin từ Hà Nội, hễ được tin Hà Nội khởi nghĩa thì Xứ ủy họp lại lập tức để quyết định ngày khởi nghĩa ở Sài Gòn và chỉ định ra Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ.
Sau hội nghị công việc chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành rất khẩn trương ở Sài Gòn. Số lượng các đội “Công đoàn xung phong” và “Thanh niên Tiền phong” được tăng cường. Các Đội tự vệ được trang bị thêm vũ khí.