Sáng 1/11, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức tổ chức Hội nghị Khoa học Quốc tế năm 2025, với chủ đề: “Vai trò của Ngoại khoa và Ghép tạng trong Kỷ nguyên hội nhập toàn cầu”. Hội nghị là diễn đàn khoa học quy mô lớn nhằm trao đổi, cập nhật và chia sẻ những tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực ngoại khoa và ghép tạng, góp phần thúc đẩy hợp tác quốc tế và nâng cao chất lượng điều trị người bệnh tại Việt Nam.
Những bước tiến vượt bậc của ngành ghép tạng và ngoại khoa Việt Nam
Tiến sĩ, bác sĩ Dương Đức Hùng, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết, trong vòng 20 năm, và đặc biệt là 10 năm gần đây, y tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực ghép tạng, tiệm cận được với trình độ chung của thế giới.
Các kỹ thuật ghép tạng đã được cải tiến, rút ngắn thời gian phẫu thuật và giúp bệnh nhân hồi phục nhanh hơn. Thí dụ, thời gian phẫu thuật ghép gan đã giảm từ trung bình 12-14 giờ xuống còn khoảng 6-7 giờ.
Việt Nam đã chủ động nghiên cứu, áp dụng và cải tiến các kỹ thuật ghép tạng, không chỉ học hỏi từ các chuyên gia quốc tế mà còn chia sẻ những kinh nghiệm và kỹ thuật mới với họ.
Số lượng ca ghép tạng, đặc biệt là ghép gan, đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây, chứng tỏ sự tiến bộ về nhận thức và sự sẵn sàng của người dân.
Dẫn chứng bằng những con số cụ thể, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Trọng Khoa, Phó Cục Trưởng Cục quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế cho biết, những năm qua, nhờ sự vào cuộc mạnh mẽ của truyền thông trong vận động hiến tặng mô, tạng nên số người đăng ký hiến và số ca hiến tạng sau khi chết não tăng lên rõ rệt.
Theo đó, nếu như năm 2014 chỉ có 265 người đăng ký hiến tặng mô, tạng thì đến nay, con số ấy đã lên tới 129.711 người. Tính đến tháng 4/2025, Bộ Y tế đã công nhận 30 bệnh viện đủ điều kiện lấy, ghép bộ phận cơ thể người; 85 bệnh viện được đào tạo về vận động hiến tạng, đánh giá chết não; 12 cơ sở y tế được cấp phép hoạt động Ngân hàng mô.
Việt Nam đã thực hiện ghép được 6 loại bộ phận cơ thể người với tổng số ca ghép là 9.805 ca, trong đó chủ yếu là ghép thận với 8.904 ca; 754 ca ghép gan; 126 ca ghép tim; 13 ca ghép phổi, 3 ca ghép chi trên; 2 ca ghép ruột và hàng trăm ca ghép mô (ghép giác mạc, ghép da, tế bào gốc...).
"Chúng ta đã thực hiện được các loại ghép đa tạng phức tạp, kỹ thuật tiệm cận các nước tiên tiến trong khu vực, số lượng ca ghép tăng dần qua các năm, tỷ lệ thành công và sống sau ghép ngày càng cao. Chúng ta cũng hình thành các ngân hàng mô, đơn vị ghép tạng và cơ sở điều phối trải rộng từ bắc đến nam", Tiến sĩ Nguyễn Trọng Khoa nói.
Cần sửa đổi luật để nâng cao nguồn tạng hiến và tài chính bền vững cho ghép tạng
Một vấn đề nóng hiện nay liên quan đến lĩnh vực hiến, ghép mô, tạng chính là việc sửa đổi Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác.
Chia sẻ dự kiến về một số điểm mới đáng lưu ý trong Luật sửa đổi lần này, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh Nguyễn Trọng Khoa chia sẻ, trong dự án Luật sửa đổi, Bộ Y tế đề xuất cho phép người dưới 18 tuổi hiến sau chết não nếu có sự đồng ý của cha mẹ/giám hộ; tách độ tuổi hiến sống theo cùng huyết thống (≥18 tuổi) và không cùng huyết thống (≥30 tuổi).
Bổ sung quy định về chết tuần hoàn để có thể hiến tặng mô, tạng. Đồng thời, sẽ nới lỏng quy định bắt buộc thời gian giám định pháp y với người cho chết não và bổ sung chuyên gia Chẩn đoán hình ảnh trong xác định một người chết não hay không để tăng thêm sự đánh giá.
Một điểm quan trọng là sẽ ban hành danh mục chi phí hiến-ghép (thăm, xét nghiệm, thuốc, hồi sức, chống thải ghép, tái khám...); nguồn chi từ bảo hiểm y tế, ngân sách nhà nước, tài trợ hợp pháp. Đây là cơ chế tài chính bền vững để hỗ trợ cho người bệnh ghép tạng. Theo ông Nguyễn Trọng Khoa, hiện Bộ Y tế đã ban hành kỹ thuật về ghép gan, đang điều chỉnh kỹ thuật ghép thận và tính toán chi phí cho những tạng ghép phổ biến này.
Luật sửa đổi cũng sẽ tạo hành lang pháp lý cho y học tái tạo, ngăn ngừa thương mại hóa, bảo đảm an toàn, nhân đạo... Đồng thời, Luật sửa đổi cũng bổ sung quy định cho các nghiên cứu về quyền hiến, lấy, bảo quản và sử dụng tế bào gốc, máu và sản phẩm từ tế bào gốc.
Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cũng cho rằng, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 có nhiều điểm lạc hậu. Do đó, cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp với thực tế, như: Mở rộng đối tượng được phép hiến tạng (bao gồm cả trẻ em); đơn giản hóa thủ tục, giảm sự đồng ý của gia đình sau khi người hiến tạng đã đăng ký; bổ sung các quy định về tiêu chuẩn chẩn đoán tử vong não, chết não.
"Có rất nhiều cháu mắc bệnh mà không thể qua được, gia đình người hiến đồng hiến tạng cho mình nhưng luật pháp không cho phép. Hàng ngày, hàng giờ chúng tôi vẫn được chứng kiến những em bé mong chờ phép màu từ ghép tạng mà không có cơ hội. Đã đến lúc cần phải thay đổi", Tiến sĩ Dương Đức Hùng nói.
Trong lĩnh vực ghép tạng, với vai trò của các bệnh viện "hạt nhân" như Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Tiến sĩ Dương Đức Hùng cho hay bệnh viện tiếp tục chuyển giao kỹ thuật, nâng cao năng lực cho các bệnh viện khác. Bên cạnh đó, các bệnh viện muốn triển khai kỹ thuật ghép tạng cần phải tiếp tục đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế, đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn cao.
Để có thêm nhiều nguồn tạng hiến không bị bỏ phí, Tiến sĩ Dương Đức Hùng bày tỏ mong muốn cần có nhiều chiến dịch truyền thông rộng rãi, liên tục để thay đổi nhận thức và thái độ của người dân về hiến tạng; hoàn thiện cơ chế quản lý, điều phối hoạt động ghép tạng hiệu quả, bảo đảm công bằng, minh bạch. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm giữa các bệnh viện, các chuyên gia trong nước và quốc tế.
Với chủ đề “Vai trò của Ngoại khoa và Ghép tạng trong Kỷ nguyên Hội nhập Toàn cầu”, hội nghị sẽ diễn ra trong một ngày với 4 phiên báo cáo khoa học chuyên sâu, tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn như: Ghép tạng, Phẫu thuật gan mật, Tim mạch-lồng ngực, Tiết niệu, tiêu hóa, sản phụ khoa, chấn thương chỉnh hình và liền thương.
Hội nghị gồm 4 phiên chuyên đề với khoảng 40 bài tham luận, bao quát nhiều chủ đề quan trọng trong lĩnh vực ngoại khoa và ghép tạng. Một số bài báo cáo tiêu biểu: “Thách thức trong phẫu thuật gan – Tổng kết kinh nghiệm 50 năm” – Giáo sư Ken Takasaki (Nhật Bản); “Ghép gan: Thực trạng, thách thức và tương lai” – Tiến sĩ, bác sĩ Dương Đức Hùng, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức; “Cắt gan do sỏi mật” – Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Thơ (Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức); “Những thay đổi trong kỹ thuật ghép gan toàn bộ tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức” – Tiến sĩ, bác sĩ Ninh Việt Khải (Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức); “Ghép tim – thận đồng thời: Từ đánh giá người hiến tới sự hồi phục của người nhận” – Giáo sư Li Sillin (Bệnh viện trực thuộc số 2, Đại học Y Quảng Tây, Trung Quốc); “Nghiên cứu bước đầu về gây mê tự thở trong ghép phổi” – Phó Giáo sư Guilin Peng (Trung Quốc); “Điều trị các trường hợp loét bàn chân đái tháo đường bằng phương pháp mở cửa sổ xương chày” – Giáo sư Qikai Hua (Bệnh viện trực thuộc số 1, Đại học Y Quảng Tây, Trung Quốc)