Canh tác cà-phê robusta theo hướng thuận tự nhiên, hướng đi bền vững góp phần nâng tầm thương hiệu cà-phê Việt Nam.
Canh tác cà-phê robusta theo hướng thuận tự nhiên, hướng đi bền vững góp phần nâng tầm thương hiệu cà-phê Việt Nam.

CÀ-PHÊ ROBUSTA TỎA HƯƠNG

Kỳ 2: Sản xuất cà-phê robusta theo hướng bền vững

Thị trường tiêu thụ ngày càng đòi hỏi cao, vì vậy nông dân cũng như ngành chức năng đang có bước chuyển tích cực, sẵn sàng để thích ứng với tiêu chuẩn mới. Những mô hình sản xuất cà-phê theo hướng bền vững đang cho thấy ưu điểm vượt trội.

Canh nông theo hướng thuận tự nhiên

Ông Trịnh Tấn Vinh, 65 tuổi, sống tại xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, dáng vóc nhỏ bé, khiêm nhường nhưng lại có quan điểm hiện đại về nông nghiệp. Hơn 15 năm trước, ông Vinh cùng 47 nông dân của huyện Di Linh được cử tham dự lớp tập huấn do các chuyên gia của Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức.

Với kiến thức thu nhận được từ lớp học, ông Vinh mạnh dạn thử nghiệm trồng cỏ lạc dại trên diện tích 1 ha cà-phê robusta vườn nhà. Cỏ lạc dại lúc trưởng thành kết thảm, phủ kín mặt đất, mùa mưa hạn chế đất bị rửa trôi, xói mòn, mùa khô cây chết rục tăng độ mùn, giữ ẩm cho đất. Ông Vinh chia sẻ: “Đất bazan ở Tây Nguyên thích hợp với cây lâu năm nhưng qua quá trình canh tác liên tục, kéo dài đất đã bắt đầu bị chai, bạc màu”. Từ khi áp dụng mô hình trồng cỏ lạc dại ông Vinh đã tiết kiệm được khoảng 75% chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật.

Mỗi năm, sau khi trừ chi phí, bình quân ông Vinh thu khoảng 400 triệu đồng từ khu vườn cà-phê. Qua phân tích từ giới chuyên gia về ngành khoa học cây trồng, sử dụng thảm cỏ lạc dại giúp thúc đẩy đa dạng sinh học. Cỏ lạc dại lên cao có thể phát bớt, tạo ra lớp thảm thực vật của rừng tự nhiên. Khi lớp cỏ ăn sâu xuống đất thì rễ xé đất tạo độ thông thoáng, giữ độ ẩm làm cho đất mát, tạo điều kiện lý tưởng cho vi sinh vật phát triển.

Tiến sĩ nông học Phạm Công Trí, cố vấn kỹ thuật cao cấp IDH (Tổ chức sáng kiến thương mại bền vững) cho biết, tại Việt Nam, tổ chức triển khai Chương trình cảnh quan bền vững, mô hình canh tác của ông Trịnh Tấn Vinh được đánh giá là mô hình mẫu theo hướng sản xuất tuần hoàn, thuận tự nhiên, đủ tiêu chuẩn của hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới, tầng trên trồng cây sầu riêng, bưởi, tầng giữa trồng cà-phê và tầng dưới cùng là thảm cỏ lạc dại. Hệ sinh thái có khả năng tự cân bằng, cây các tầng không xung đột hoặc hạn chế sự phát triển của nhau.

"Cây này bổ trợ giúp cây khác phát triển, vì vậy tạo ra một môi trường thuần khiết, hạn chế tối đa phát thải gây hại môi trường”, tiến sĩ Phạm Công Trí phân tích.

Mở điện thoại lướt ảnh Facebook, ông Vinh khoe với phóng viên, bạn bè của ông nhiều người sinh sống ở Mỹ và châu Âu. Mỗi lần về thăm, ông tặng cho mỗi người một gói cà-phê tiện lợi. Hình ảnh gói cà-phê Việt có mặt tại World Cup 2024, đỉnh Everest khiến ông tự hào, bởi công sức, thành quả lao động của nông dân Việt như ông được lan tỏa, mang thương hiệu nông sản nước nhà giới thiệu với bạn bè thế giới.

Tháng nào vợ chồng ông Vinh cũng đón khách đến tham quan, học hỏi trao đổi kinh nghiệm làm nông nghiệp bền vững. Thậm chí, nhiều người bạn ngoại quốc cũng đã từng đến cùng ông quây tròn trên thảm lạc dại thảo luận sôi nổi về nông nghiệp hữu cơ. Khu vườn đa tầng của gia đình ông Vinh là địa chỉ quen thuộc của rất nhiều nhà khoa học, là nơi các viện nghiên cứu, các trường đại học... tổ chức các chuyến thực địa tham quan, thực hành nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái và quản lý môi trường bền vững. Điều đáng mừng là ông vẫn đều đặn nhận được điện thoại nhờ tư vấn của các bạn trẻ từ các địa phương lân cận. Ông Vinh luôn sẵn lòng chia sẻ với mọi người về quy trình trồng cà-phê được ông đúc rút kinh nghiệm qua nhiều năm canh tác.

Định hướng dài hạn

Theo Đề án phát triển cà-phê đặc sản Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tỉnh Gia Lai đặt mục tiêu đến năm 2030 phát triển diện tích cà-phê robusta của tỉnh lên khoảng 2.340 ha, tập trung tại sáu vùng chuyên canh cà-phê đặc sản chính có quy mô lớn tại các huyện Đắk Đoa (720 ha), Ia Grai (900 ha) và Chư Prông (720 ha). Mục tiêu này nhằm bảo đảm nguồn nguyên liệu chất lượng tốt nhất phục vụ chế biến và xuất khẩu.

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai, ông Lưu Trung Nghĩa cho biết, để hiện thực hóa mục tiêu này, tỉnh đã đề ra bảy nhóm nhiệm vụ và giải pháp, trong đó tập trung vào việc xác định chi tiết vùng trồng cà-phê đặc sản, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị và đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ trong sản xuất, chế biến. “Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm mà ngành đã và đang tập trung thực hiện là kiến tạo, kết nối các tác nhân tham gia chuỗi giá trị, lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong xây dựng và phát triển chuỗi giá trị cà-phê đặc sản của tỉnh”, ông Nghĩa nhấn mạnh.

Sự hỗ trợ từ chính quyền và ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình nâng tầm giá trị cà-phê Gia Lai. Theo ông Lưu Trung Nghĩa, tỉnh xác định việc phát triển cà-phê đặc sản là hướng đi chiến lược, giúp Gia Lai gia tăng giá trị xuất khẩu, đồng thời xây dựng được thương hiệu bền vững. Cụ thể, Gia Lai tập trung hỗ trợ chứng nhận chất lượng cho các doanh nghiệp và hợp tác xã, làm việc với các tổ chức trong và ngoài nước để đạt được các chứng nhận hữu cơ như USDA và EU, cũng như chứng nhận cà-phê đặc sản theo tiêu chuẩn SCA, giúp sản phẩm dễ dàng tiếp cận các thị trường cao cấp.

Tỉnh cũng đang kết nối doanh nghiệp với thị trường xuất khẩu thông qua việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ và triển lãm quốc tế. Điển hình là tại triển lãm càphê đặc sản ở Tokyo, sản phẩm Fine Robusta Gia Lai (cà-phê robusta đặc sản Gia Lai) đã thu hút được sự quan tâm lớn từ khách hàng Nhật Bản. Đồng thời, tỉnh cũng khuyến khích đầu tư khoa học-công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là ứng dụng công nghệ chế biến sâu và rang xay tiên tiến, nhằm giữ gìn hương vị đặc trưng của Fine Robusta.

Cả nước có khoảng hơn 700.000 ha cà-phê, trong đó Tây Nguyên chiếm hơn 90% diện tích cà-phê cả nước, dòng robusta chiếm 90% tổng diện tích và sản lượng. Nông dân vẫn nắm khâu quyết định, chất lượng cà-phê tốt hay xấu phụ thuộc hoàn toàn vào quy trình sản xuất. Tuy nhiên, diện tích và sản lượng cà-phê chất lượng cao đang rất thấp, nông dân vẫn sản xuất theo phương thức cũ.

Hai năm nay cà-phê được giá, đó là điều đáng mừng, nhưng mấy chục năm mới có giá như thế, tính ra cũng bù trừ cho thời điểm giá cả thiếu ổn định. Nếu nông dân chấp nhận làm theo hướng cà-phê đặc sản, tuân thủ các tiêu chí như giảm đến mức thấp nhất việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, hái chín hơn 90% số quả, phơi trên sàn cách mặt đất nhằm bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm… thì giá bán cũng rất cao, cà-phê honey (loại hái chín 100%, phơi trong hệ thống nhà kính từ 12-15 ngày để lớp nhầy bám vào hạt tạo hương vị như mật ong sau khi rang), cà-phê theo hướng thuận tự nhiên có giá từ 150.000 và 190.000 đồng/kg.

Bạn trẻ Phùng Hạ Long, chủ trang trại Fair Farm khẳng định, làm tốt khâu sản xuất là giải quyết cái gốc của vấn đề. Cà-phê robusta cũng như các loại nông sản tự tin đứng vững trước bão giá. Mong rằng, với sự đồng hành của Nhà nước, nhà nông, doanh nghiệp và nhà khoa học, hệ sinh thái cà-phê Fine Robusta sẽ đủ sức cạnh tranh, góp phần khẳng định thương hiệu cà-phê đặc sản Việt Nam trên cả thị trường nội địa và quốc tế.

Xem thêm