Trong bối cảnh ấy, việc duy trì và bảo tồn kiến trúc và kỹ thuật dựng nhà rông truyền thống của đồng bào trở nên quan trọng, quý giá hơn bao giờ hết.
Chuyện nhà rông "mẹ", nhà rông "con"
20 người làng Kon Rbàng, tỉnh Kon Tum trước kia (nay thuộc xã Ngọk Bay, tỉnh Quảng Ngãi) vừa trải qua một tháng xa nhà, ra Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ở Thủ đô Hà Nội để sửa chữa căn nhà rông mái cao, phục dựng từ nguyên mẫu căn nhà rông của làng, có từ hồi đầu thế kỷ 20.
Tất thảy người trong đoàn đều là nam giới. Người có bốn lần, ba lần, người thì mới lần đầu tham gia nhóm dựng và sửa chữa nhà. Ngôi nhà có chiều cao tổng cộng xấp xỉ 19 m, được dựng hoàn toàn bằng nguyên vật liệu tự nhiên, gỗ, tre, nứa, sợi mây, cỏ tranh. Những thân cây gỗ dốc đứng, được đẽo thành cầu thang dẫn lên phần sân trước của nhà, cao chừng ba mét. Mái nhà cũng dốc đứng, cao lừng lững gần 16 m, lợp bằng từng tấm cỏ tranh đã qua công đoạn xử lý, nẹp thành tấm ngay ngắn. Nhìn những dáng đồng bào nhỏ dần, bám theo chiều cao mái, ngắm từng tấm tranh, buộc từng nút dây mây theo kỹ thuật truyền thống, chắc chắn, thuần thục, người bên dưới chỉ còn biết thầm thán phục.
Tiến sĩ Lưu Hùng, nguyên Phó Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, là người trực tiếp tham gia các chuyến điền dã vùng Trường Sơn, Tây Nguyên, khoảng thời gian 1999-2000, để tìm hiểu về thực tế dựng và sử dụng nhà rông của đồng bào Tây Nguyên. Ông cho biết, năm 1999, ngôi nhà rông của làng Kon Rbàng đã có mái lợp bằng tôn, khoảng sân phía trước cửa nhà được đổ bê-tông cốt thép. Nhưng bộ khung gỗ của nhà, gồm tám cây cột lớn, đường kính 45-60cm, khung mái, hai cây cột trang trí phía trước ngôi nhà vẫn được giữ nguyên vẹn, trùng khớp với hình ảnh tư liệu ban đầu về ngôi nhà rông này từ một thư viện ở Pháp, một viện nghiên cứu ở Mỹ và một tạp chí cũ của Thụy Sĩ, trong các năm 1929, 1933, 1951. Qua nhiều khó khăn, ngôi nhà rông mái cao của đồng bào Ba Na làng Kon Rbàng, ra đời trong những năm đầu thế kỷ 20, đã được phục dựng bởi chính thế hệ con cháu của làng, nhưng là tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. "Trong buổi lễ khánh thành ngôi nhà, ngày 4/6/2003, ông A Pho, đại diện cho 40 người làng tham gia dựng lại ngôi nhà, khẳng định, cấu trúc của ngôi nhà phục dựng này được làm y nguyên như ngôi nhà rông ban đầu của làng. Tôi không bao giờ quên lời ông nói hôm đó: Chúng tôi gửi lại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, gửi lại bà con Thủ đô ngôi nhà này cùng giọt mồ hôi đã thấm vào từng cây cột, cây xà, cây rui, cây mè, từng tấm phên cỏ tranh trong những tháng vừa qua…", Tiến sĩ Lưu Hùng chia sẻ.
Cho đến nay, ngôi nhà rông tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã qua ba lần sửa chữa, đứng vững trong thời tiết khắc nghiệt của miền Bắc. Ngay cả trong các cơn bão lớn vừa qua, ngôi nhà vẫn bình yên. Đây được coi là ngôi nhà "con". Còn ngôi nhà rông hiện tại của làng Kon Rbàng là ngôi nhà "mẹ".
Do hoàn cảnh mở đường lớn, chạy ngay ngang qua vị trí của nhà rông, nên trong thời gian sửa chữa ngôi nhà "con" tại Thủ đô Hà Nội, ngôi nhà "mẹ" ở làng Kon Rbàng cũng được người dân tìm cách di dời sang địa điểm mới. Lúc đó, họ phát hiện ra chân của tám cột nhà chính đã bị mục ruỗng, phải bỏ đi một phần và xử lý rốt ráo nhằm bảo vệ phần thân gỗ còn lại. Chính vì thế, ngôi nhà thấp hẳn đi chừng hơn một mét. Các cán bộ của Bảo tàng cùng người làng tham gia sửa chữa ngôi nhà "con" có nói vui với nhau: vậy là nhà mẹ đã "già", còng lưng, thấp hơn người con rồi.
Ghi chép lưu trữ dữ liệu cho mai sau
Theo lời kể của ông A Wăng, người tham gia từ phục dựng ban đầu đến ba phiên sửa chữa nhà rông "con", ngôi nhà rông "mẹ", sau khi được đưa tới địa điểm mới, tiếp tục được sửa chữa. Mái nhà được lợp lại bằng cỏ tranh, như là mái nhà "con" thôi nhưng khung mái không được làm bằng tre, nứa và kỹ thuật buộc dây mây, mà bằng sắt và kỹ thuật hàn. Nguyên do chính của việc này là hiện giờ, "rất khó tìm mua nguyên liệu gỗ, tre, nứa" tại địa phương, trong khi đó, nguyên liệu sắt lại có sẵn, chi phí chấp nhận được.
Mặc dù vậy, các kỹ thuật dựng nhà rông truyền thống của làng Kon Rbàng, theo ông A Wăng, sẽ không bao giờ bị quên. "Trước đây, mọi người làm và truyền lại cho nhau theo trí nhớ, nên có khi thừa thứ nọ, thiếu thứ kia. Còn bây giờ, tôi đã ghi lại đầy đủ qua từng lần ra Bảo tàng Dân tộc học dựng và sửa nhà", ông A Wăng cho biết. Trong đợt sửa nhà lần này, ông A Wăng giữ vị trí trưởng nhóm về kỹ thuật.
Tương tự như lần phục dựng ngôi nhà với 40 người làng, thuộc nhiều thế hệ, già nhất là 70 tuổi, trẻ nhất là 20 tuổi, trong nhóm 20 người làng ra Bảo tàng sửa nhà lần này, có A Thuân, trẻ nhất, 19 tuổi. Bố của Thuân, ông A Thôi, cũng ra sửa nhà lần này, là lần thứ hai. Sau một tháng, từ chưa từng làm gì liên quan đến dựng, sửa nhà rông, A Thuân đã biết chọn, đánh, nẹp cỏ tranh thành tấm chuẩn chỉ, biết cách giữ an toàn khi leo lên mái nhà cao vút để sắp xếp từng tấm cỏ ngay ngắn thành mái. Già làng A Nghêh, người chưa vắng mặt lần nào trong cả bốn lần dựng và sửa nhà rông, khẳng định, A Thuân học từ người lớn tuổi rất nhanh, và "đến kỳ sửa nhà lần sau, chắc chắn sẽ làm được hết mọi việc".
Theo ước tính của Tiến sĩ Lưu Hùng, trong lần phục dựng nhà, qua hai quãng thời gian làm, có 59 lượt người tham gia với khoảng 3.350 ngày công. Nếu trung bình mỗi lần sửa chữa kéo dài một tháng với 20 người, thì tính ra cũng cần đến 600 ngày công. Để thu xếp xa nhà cả tháng trời, mỗi người phải tính toán, cân nhắc nhiều lẽ. Trải qua hơn 20 năm, ngôi nhà rông mái cao được dựng từ nguyên mẫu ngôi nhà rông Ba Na truyền thống của làng Kon Rbàng đã thấm bao mồ hôi, công sức, tình cảm của hàng trăm người dân làng.
Trong bối cảnh mà những ngôi nhà rông nguyên bản dần thưa vắng ở các buôn làng Tây nguyên, việc người dân Kon Rbàng chủ động ghi chép để lưu trữ và truyền lại cho nhau tri thức dân gian về làm và sửa chữa nhà rông truyền thống thật sự vô cùng quý giá. Điều đó còn đem tới hy vọng rằng, ngôi nhà "mẹ" sẽ lại được tái sinh nguyên vẹn hình hài ở chính ngôi làng của nó ■