Tại Ninh Bình, việc áp dụng truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm mật ong sú vẹt Kim Sơn, một nghề truyền thống lâu đời đang mở ra bước chuyển mạnh mẽ, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
“Vựa mật” vùng biển
Những cánh rừng sú vẹt ven biển Kim Sơn từ lâu đã là “vựa mật” của Ninh Bình. Giờ đây, những giọt mật vàng óng ấy đã được “định danh” bằng tem truy xuất nguồn gốc điện tử gắn mã QR, giúp minh bạch quy trình sản xuất và nâng tầm thương hiệu.
Hợp tác xã nuôi ong mật 27/7, xã Kim Đông, thành lập cuối năm 2023 với 16 thành viên, khai thác mật trên vùng rừng ngập mặn rộng lớn. Trước đây, người dân đưa ong về lấy mật từ tháng 5 đến tháng 8 hằng năm nhưng sản phẩm chưa có thương hiệu rõ ràng, khó tiếp cận thị trường. Từ khi được hỗ trợ tem truy xuất nguồn gốc và máy hạ thủy phần, sản phẩm đạt độ ẩm chuẩn, không lên men, giá trị thương mại tăng rõ rệt.
“Toàn bộ quy trình, từ chăm sóc ong, thu mật theo ngày, vận chuyển, bảo quản, hạ thủy phần đến đóng gói đều được ghi chép, kèm hình ảnh, video và cập nhật lên hệ thống truy xuất nguồn gốc. Điều này giúp người tiêu dùng tin tưởng hơn, thuận lợi tham gia các kênh phân phối chính thức, hướng tới xuất khẩu. Hiện mỗi sản phẩm đều tinh khiết, tự nhiên, chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế, được đưa lên sàn OCOP và các cửa hàng thực phẩm sạch của tỉnh”-Anh Tạ Đức Tài, Phó Giám đốc Hợp tác xã chia sẻ.
Tại xã Bình Minh, Hợp tác xã Sản xuất và Tiêu thụ Mật ong sú vẹt biển Kim Sơn với 12 thành viên sản xuất khoảng 10 tấn mật/năm. Việc dán tem truy xuất nguồn gốc giúp sản phẩm có nhận diện rõ ràng, được thị trường đón nhận hơn và giá bán cải thiện.
Ông Vũ Mạnh Thắng, Giám đốc Hợp tác xã cho biết, để được dán tem truy xuất, các thành viên phải tuân thủ quy trình nghiêm ngặt: theo dõi đàn ong, không cho ăn đường, không trộn mật, thu hoạch đúng kỹ thuật và kiểm định độ đường bằng thiết bị đo... Dù yêu cầu khắt khe, đơn vị vẫn thu mua với giá cao hơn nhằm khuyến khích người nuôi giữ chất lượng ổn định.
Không chỉ các hợp tác xã, các doanh nhân trẻ cũng áp dụng công nghệ để nâng cao giá trị mật ong quê hương. Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại Mật ong sú vẹt Kim Sơn (xã Bình Minh) Vũ Anh Toản cho hay, công ty hiện quản lý 700 thùng ong, với sản lượng 7-8 tấn mỗi năm, toàn bộ sản phẩm đã được gắn mã QR điện tử. Nhờ truy xuất nguồn gốc, doanh nghiệp kiểm soát nguyên liệu đầu vào tốt hơn, tiết kiệm thời gian và tiếp cận người tiêu dùng nhanh hơn. Khách hàng có thể tra cứu xuất xứ, quy trình sản xuất, từ đó tăng độ tin cậy, giúp doanh thu tăng 10-20%. Nhờ lợi thế nguồn hoa sú vẹt đặc hữu kết hợp với truy xuất nguồn gốc, nghề nuôi ong ven biển Kim Sơn ngày càng phát triển bền vững.
Xây dựng nền nông nghiệp số thông minh
Với mục tiêu xây dựng mô hình truy xuất nguồn gốc điện tử đạt chuẩn quốc gia, có khả năng mở rộng và ứng dụng trực tiếp vào sản xuất, quản lý, tiêu thụ sản phẩm, tỉnh Ninh Bình triển khai đề tài khoa học “Xây dựng mô hình áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc cho một số sản phẩm mật ong của tỉnh Ninh Bình” giai đoạn 2024-2025 tại các xã Kim Đông, Bình Minh và Đồng Thái. Đây là bước đi cụ thể hóa chủ trương của Chính phủ và của tỉnh về phát triển nông nghiệp số, nông thôn số.
Đề tài kết hợp đồng thời hai yếu tố công nghệ và xã hội, vừa xây dựng hệ thống công nghệ thông tin với phần mềm Smart- Trace, vừa tổ chức hướng dẫn, đào tạo, thay đổi nhận thức người dân về quy trình sản xuất chuẩn hóa và quản lý dữ liệu số.
Đặc biệt, hệ thống truy xuất nguồn gốc được thiết kế theo nguyên tắc định danh đối tượng, lô sản xuất, địa điểm và người chịu trách nhiệm; cập nhật dữ liệu theo thời gian thực bằng thiết bị điện tử; lưu trữ và chia sẻ tập trung qua phần mềm quản lý Smart-Trace; tích hợp mã QR cho từng sản phẩm để người tiêu dùng tra cứu nhanh thông tin; đồng thời kết nối với cổng truy xuất nguồn gốc quốc gia, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và xác thực.
Nhờ cách tiếp cận đồng bộ, chỉ sau một năm triển khai, sản phẩm mật ong có truy xuất nguồn gốc được người tiêu dùng và các đơn vị phân phối đánh giá cao, giá bán tăng 10–15%. Nhiều cơ sở sản xuất đã ký được hợp đồng tiêu thụ ổn định với các cửa hàng thực phẩm sạch trong và ngoài tỉnh. Công tác quản lý chất lượng trở nên chặt chẽ hơn, hạn chế tình trạng gian lận, pha trộn mật kém chất lượng; quy trình nuôi sạch bảo vệ đa dạng sinh học và kiểm soát hóa chất,…
Theo ông Hoàng Trọng Lễ, Bí thư Đảng ủy xã Kim Đông, việc ứng dụng truy xuất nguồn gốc cho mật ong không chỉ giúp minh bạch hóa chất lượng sản phẩm mà còn tạo nền tảng xây dựng thương hiệu “Mật ong Ninh Bình sạch, an toàn”. Thời gian qua, người dân rất phấn khởi khi tham gia mô hình vì thấy rõ lợi ích, từ việc dễ tiếp cận thị trường đến nâng cao thu nhập. Xã sẽ tiếp tục đào tạo, tập huấn, mở rộng mô hình; đồng thời, tăng diện tích nuôi ong và quy mô các hộ, doanh nghiệp tham gia, hướng tới xây dựng đàn ong ổn định, đồng bộ, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người dân.
Theo ông Trịnh Đình Thể, Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Ninh Bình, tỉnh sẽ tiếp tục mở rộng hệ thống truy xuất nguồn gốc không chỉ với mật ong mà còn với nhiều sản phẩm đặc trưng khác để hình thành mạng lưới truy xuất đồng bộ; xây dựng bản đồ số vùng sản xuất nông nghiệp, tích hợp truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý và truy vết môi trường; tạo hệ sinh thái số cho sản phẩm OCOP và thương mại điện tử; tổ chức các lớp tập huấn đào tạo chuyên sâu về kỹ năng số và truy xuất nguồn gốc cho cán bộ quản lý.
Mô hình truy xuất nguồn gốc mật ong Ninh Bình là bước đột phá trong ứng dụng công nghệ số vào quản lý nông sản, đóng vai trò hạt nhân trong tiến trình xây dựng nông nghiệp số của tỉnh. Ninh Bình đặt mục tiêu đến năm 2030, 100% sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên đều có truy xuất nguồn gốc điện tử và được đồng bộ với cổng truy xuất nguồn gốc quốc gia, hướng tới một nền nông nghiệp minh bạch, bền vững và có thương hiệu mạnh.