Quang cảnh phiên họp.
Quang cảnh phiên họp.

Hợp nhất và viện dẫn văn bản không để hệ thống pháp luật phức tạp

Ngày 31/12, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh chủ trì buổi làm việc nghe báo cáo về dự thảo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật.

Báo cáo về dự thảo Pháp lệnh, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp Hồ Quang Huy nêu vấn đề trong viện dẫn trực tiếp văn bản hợp nhất trong quá trình cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân áp dụng và thi hành pháp luật.

Hiện nay, Điều 4 Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 quy định: “Văn bản hợp nhất được sử dụng chính thức trong áp dụng và thi hành pháp luật”. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, văn bản hợp nhất chủ yếu được sử dụng với mục đích tra cứu pháp luật đơn thuần, chưa thực sự phát huy vai trò là văn bản được sử dụng chính thức trong áp dụng và thi hành pháp luật. Do đó, dự thảo Pháp lệnh dự kiến bổ sung quy định về việc nội dung sau khi hợp nhất được viện dẫn trực tiếp trong quá trình cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân áp dụng và thi hành pháp luật.

Cùng với đó, dự thảo Pháp lệnh quy định cụ thể cách viện dẫn sau khi được hợp nhất để bảo đảm việc viện dẫn được thực hiện thống nhất, tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong áp dụng và thi hành pháp luật.

Dự thảo cũng quy định dự thảo văn bản hợp nhất được trình cùng với dự thảo văn bản sửa đổi, bổ sung ở giai đoạn trình thông qua/ký ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung nhằm hạn chế gia tăng nhiệm vụ cho cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản do giảm thiểu việc phải chỉnh lý nhiều lần dự thảo văn bản hợp nhất…

Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh nhấn mạnh, về nguyên tắc viện dẫn và áp dụng pháp luật, cần thống nhất quan điểm: Văn bản hợp nhất là căn cứ viện dẫn trực tiếp. Đây là tinh thần xuyên suốt theo kết luận của Bộ Chính trị và yêu cầu thực tiễn hiện nay. Mục tiêu cao nhất là để người dân, doanh nghiệp và cơ quan áp dụng pháp luật chỉ sử dụng một văn bản “sạch”, đang có hiệu lực, không phải lần theo lịch sử sửa đổi, bổ sung. Theo Bộ trưởng, cần hiểu rõ bản chất của hợp nhất là viện dẫn điều khoản cụ thể trong văn bản hợp nhất, có giá trị áp dụng trực tiếp.

Bộ trưởng lưu ý, về nguyên tắc, mọi hoạt động áp dụng pháp luật đều căn cứ vào văn bản hợp nhất. Văn bản gốc chỉ được sử dụng trong trường hợp đặc biệt, khi văn bản hợp nhất phát sinh sai sót kỹ thuật và phải được hợp nhất lại ngay.

Trong bối cảnh pháp luật sửa đổi nhanh, nhiều và đan xen giữa luật nội dung và luật tố tụng, nếu không thay đổi kỹ thuật hợp nhất và viện dẫn thì hệ thống pháp luật sẽ ngày càng phức tạp, khó sử dụng. Vì vậy, Bộ trưởng đề nghị các đơn vị tiếp thu đầy đủ tinh thần này, thể hiện rõ trong dự thảo Pháp lệnh, còn kỹ thuật trình bày cụ thể sẽ tiếp tục hoàn thiện để bảo đảm thống nhất, khả thi và dễ áp dụng.

Về việc trình văn bản hợp nhất, Bộ trưởng khẳng định, chủ trương đã thống nhất nên điểm cần làm rõ tập trung vào thời điểm và quy trình “trình đồng thời” văn bản hợp nhất, đặc biệt đối với văn bản của Chính phủ, Thủ tướng. Theo đó, “trình đồng thời” không phải là trình từ giai đoạn dự thảo ban đầu, bởi trong quá trình soạn thảo, văn bản có thể được chỉnh sửa rất nhiều lần, thậm chí thay đổi liên tục đến sát thời điểm ký ban hành. Nếu hiểu trình đồng thời từ đầu sẽ gây quá tải, không khả thi cho cơ quan chủ trì soạn thảo.

Tại thời điểm này, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm kèm theo văn bản hợp nhất tương ứng với bản trình ký, nhằm bảo đảm khi ký ban hành là có ngay văn bản hợp nhất “sạch”. Việc quy định như vậy không xung đột với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời phù hợp với thực tiễn xử lý văn bản hiện nay, khi Văn phòng Chính phủ tiếp tục rà soát, chỉnh sửa kỹ thuật trước khi hoàn tất ký ban hành.

ninh-2624.jpg
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp.

Đối với văn bản trình Quốc hội, sẽ trình văn bản hợp nhất tại thời điểm trình Quốc hội biểu quyết thông qua để bảo đảm cơ quan quyết định sử dụng được bản pháp luật hiện hành, đầy đủ. Việc bắt buộc trình kèm văn bản hợp nhất ở giai đoạn cuối sẽ giúp tăng tính minh bạch, rõ ràng, tương tự như quy định bắt buộc có bản so sánh khi sửa đổi, bổ sung luật trước đây, dù ban đầu gặp khó khăn nhưng sau đó phát huy hiệu quả rõ rệt.

Việc hợp nhất do cơ quan trình văn bản chịu trách nhiệm thực hiện, bảo đảm văn bản hợp nhất phản ánh chính xác, đầy đủ nội dung văn bản gốc, đáp ứng yêu cầu về tiến độ nhưng vẫn rõ trách nhiệm và yêu cầu rà soát chặt chẽ.

Xem thêm