Lao động của huyện Phong Thổ (cũ), Lai Châu, tham gia làm việc tại Nhật Bản. (Ảnh tư liệu: TUẤN THỊNH)
Lao động của huyện Phong Thổ (cũ), Lai Châu, tham gia làm việc tại Nhật Bản. (Ảnh tư liệu: TUẤN THỊNH)

Hỗ trợ lao động tại địa bàn khó khăn đi làm việc ở nước ngoài giúp giảm nghèo hiệu quả

Gần 4 năm triển khai, Tiểu dự án “Hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã hỗ trợ gần 4.400 người. Các chính sách hỗ trợ từ Tiểu dự án góp phần tạo sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân tại nhiều địa bàn khó khăn.

Hỗ trợ gần 4.400 lao động yếu thế ra nước ngoài làm việc

Tháng 1/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025. Tại Dự án 4 “Phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững” của Chương trình, có Tiểu dự án 2 “Hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.

Mục tiêu của Tiểu dự án 2 là đẩy mạnh hoạt động đưa người lao động sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo (theo đơn vị hành chính cũ) đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hỗ trợ hoạt động đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng nghề cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững, nhất là người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.

Đối tượng của Tiểu dự án 2 tập trung vào hai nhóm lao động.

Thứ nhất là người lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài, cư trú trên địa bàn các huyện nghèo (không bao gồm các địa bàn được hưởng cơ chế, chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài quy định tại Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030), xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo; ưu tiên người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo.

Thứ hai là người lao động tham gia các khóa đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ để đi làm việc ở nước ngoài theo các hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận.

Nội dung hỗ trợ của Tiểu dự án 2 tập trung vào các chính sách cụ thể.

Người lao động sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: tiền đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ; hỗ trợ tiền ăn, sinh hoạt phí, tiền ở trong thời gian tham gia đào tạo (bao gồm cả thời gian tham gia giáo dục định hướng), trang cấp đồ dùng cá nhân thiết yếu; chi phí khám sức khỏe, hộ chiếu, thị thực và lý lịch tư pháp; giới thiệu, tư vấn cho người lao động và thân nhân người lao động.

Cùng với đó là một phần chi phí đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận, ưu tiên người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người dân tộc thiểu số, người lao động sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.

lao-dong-chuong-trinh-im-japan-1.jpg
Đào tạo lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. (Ảnh: Colab)

Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Nội vụ) cho biết, chính sách “hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” của Tiểu dự án 2 nêu trên là một trong những chủ trương, chính sách quan trọng, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước nhằm tạo sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân tại các địa bàn khó khăn.

Qua gần 4 năm triển khai, đến nay, Tiểu dự án 2 đã có được một số kết quả ban đầu. Tính đến ngày 30/6/2025, chương trình đã hỗ trợ cho 4.395 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người dân tộc thiểu số và lao động sinh sống tại các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo (theo đơn vị hành chính cũ). Các lao động này được ngân sách nhà nước hỗ trợ chi phí đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết, chi phí khám sức khỏe, chi phí làm hộ chiếu, visa.

Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước Đặng Đức Thuận cho biết, rất nhiều người lao động sau khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trở về nước đã khởi nghiệp thành công, đặc biệt là nhóm lao động này ở các tỉnh miền trung, nơi có phong trào đi làm việc ở nước ngoài phát triển mạnh trong thời gian qua. Các báo cáo tổng thể cho thấy, lượng kiều hối gửi về từ lao động ở nước ngoài tại các tỉnh như Nghệ An, Hà Tĩnh rất lớn, lên đến hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Đây chính là nguồn vốn khởi nghiệp quan trọng cho người lao động sau khi về nước. Những câu chuyện điển hình của họ về khởi nghiệp đã truyền cảm hứng cho cộng đồng, bởi họ không chỉ vươn lên làm giàu cho bản thân mà còn tạo nhiều việc làm cho xã hội.

Đó là câu chuyện của anh Nguyễn Văn Thế Anh đến từ Tuyên Quang. Sau 3 năm đi làm việc tại Nhật Bản, anh Thế Anh trở về nước. Với số vốn tích lũy được sau thời gian đi làm việc ở nước ngoài, anh không chỉ xây dựng được nhà cửa khang trang mà còn đầu tư phát triển kinh tế tổng hợp với mô hình vườn rừng, cây ăn quả, với khoảng 1.600 trụ thanh long, 5 ha quế và và mở một xưởng thu mua, chế biến chè. Quan trọng hơn, mô hình của anh đã tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 4 lao động tại địa phương với mức lương ổn định và 6 lao động thời vụ.

Một trường hợp điển hình khác là anh Nguyễn Tiến Thành, ở tỉnh Hải Dương (cũ), từng đi làm nghề mộc nội thất tại Hàn Quốc. Khi trở về, anh mang theo không chỉ vốn liếng mà cả kinh nghiệm, kỹ năng và mô hình sản xuất hiện đại đã học được tại nước bạn. Sau một thời gian ngắn nắm bắt thị trường trong nước, anh đã mở xưởng mộc riêng, áp dụng phương châm "Tiết kiệm, chất lượng và uy tín" theo đúng mô hình đã học ở nước ngoài, giúp xưởng sản xuất có những bước khởi đầu thuận lợi và tạo việc làm cho nhiều lao động khác.

Ngoài ra, còn có một tấm gương truyền cảm hứng mạnh mẽ là chị Ngô Thị Út Luân (Thanh Hóa). Từng là một lao động đi làm việc ở nước ngoài tại Hàn Quốc, chị đã nỗ lực học hỏi, vươn lên từ công nhân nhà xưởng thành nhân viên văn phòng, rồi làm phiên dịch viên và kết nối các doanh nghiệp hai nước. Sau khi trở về Việt Nam, chị thành lập doanh nghiệp và hiện là Tổng Giám đốc Công ty CP K-Beauty Worldwide Việt Nam.

Hướng chính sách hỗ trợ trực tiếp các vùng "lõi nghèo"

Cũng theo ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước, để thúc đẩy việc triển khai hiệu quả Tiểu dự án 2 trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, thời gian qua, cơ quan này đã chủ động tập trung vào công tác nâng cao năng lực thực thi và nhận thức tại cơ sở. Trong kế hoạch của năm 2025, Cục Quản lý lao động ngoài nước đang tích cực tổ chức 3 hội nghị tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ, tuyên truyền viên cơ sở làm công tác vận động, tư vấn tại 3 địa phương (Điện Biên, thành phố Huế và Vĩnh Long).

le-xuat-canh-ung-vien-dieu-duong-khoa-12-sang-nhat.jpg
Lễ xuất cảnh cho ứng viên điều dưỡng, nhân viên chăm sóc sang làm việc tại Nhật Bản theo chương trình EPA - khóa 12, tháng 6/2025. (Ảnh: Dolab)

Hoạt động này nhằm trang bị cho đội ngũ cán bộ cơ sở các kỹ năng tiếp cận thông tin chính thống, chính xác và cập nhật, cách thức tư vấn cho người lao động, cung cấp thông tin về các chính sách hỗ trợ, thị trường lao động, và đặc biệt là cảnh báo các rủi ro có thể gặp phải. Mục tiêu cuối cùng là hướng tới hỗ trợ người lao động kết nối trực tiếp, giảm chi phí và bảo đảm quyền lợi hợp pháp khác.

Cũng theo đại diện lãnh đạo của Cục Quản lý lao động ngoài nước, công tác hỗ trợ lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại các huyện nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số các xã bãi ngang, ven biển hải đảo (theo đơn vị hành chính trước đây), vùng còn khó khăn về điều kiện kinh tế-xã hội để hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững là một chủ trương tập trung nguồn lực rất đúng đắn, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, hướng chính sách hỗ trợ trực tiếp vào các vùng "lõi nghèo", các khu vực khó khăn nhất của quốc gia để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Công tác hỗ trợ được định hướng rõ ràng là vẫn tiếp tục thực hiện và tập trung vào "địa bàn các huyện nghèo cũ và các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo cũ". Điều này bảo đảm tính liên tục và sự tập trung của chính sách, tránh việc phân tán nguồn lực.

Mặc dù vậy, thực tiễn triển khai tại các địa bàn đặc thù này cũng bộc lộ những thách thức lớn.

Khó khăn lớn nhất, như các báo cáo tổng thể cấp quốc gia và báo cáo từ địa phương đều chỉ ra, là năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ triển khai... còn hạn chế, nhất là ở cấp cơ sở (xã, thôn). Sự biến động và hạn chế về chuyên môn, kỹ năng của đội ngũ này là rào cản lớn trong việc đưa chính sách đến với người dân. Bên cạnh đó, một bộ phận người dân vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng với trình độ dân trí chưa cao và tập quán sản xuất lạc hậu khiến hiệu quả tiếp cận Chương trình của chính người dân chưa tốt như kỳ vọng.

Nhận diện rõ những thách thức này, các cơ quan quản lý đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.

Trước hết là nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, thông qua các hoạt động tập huấn trực tiếp tại địa phương để trang bị kỹ năng tư vấn, nhận diện rủi ro.

Tiếp đó là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số. Tiêu biểu là gần đây nhất, Cục Quản lý lao động ngoài nước phối hợp Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) phát triển ứng dụng “Việc làm ngoài nước DOLAB-JICA” nhằm tạo ra kênh thông tin minh bạch, an toàn, giúp người dân vùng sâu, vùng xa dễ dàng tiếp cận cơ hội đi làm việc ở Nhật Bản một cách trực tiếp.

Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng khẳng định, chủ trương đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững tại các địa phương là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đây cũng là một trong những giải pháp hiệu quả, bền vững nhất trong Chiến lược giảm nghèo quốc gia. Việc đưa nội dung này thành một tiểu dự án trong Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững cho thấy sự công nhận ở cấp cao nhất về vai trò của hoạt động này.

Chính sách này tạo cơ hội cho lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo có việc làm thu nhập cao, giúp tạo việc làm, sinh kế bền vững, tăng thu nhập và góp phần phát triển kinh tế gia đình, đồng thời nâng cao chất lượng nhân lực. Lao động sau khi về nước mang theo kỹ năng, ngoại ngữ và tác phong làm việc chuyên nghiệp. Họ chính là nguồn nhân lực quan trọng để khơi dậy tiềm năng, phát huy tinh thần tự lực vươn lên của người nghèo và góp phần nâng cao hình ảnh của quốc gia.

NGÂN ANH

Xem thêm