Ông Nguyễn Đỗ Dũng chia sẻ về ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.
Ông Nguyễn Đỗ Dũng chia sẻ về ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.

Hành trình dùng AI-IoT chế tạo thiết bị make in Vietnam đo "sức khỏe" của đất

Tại Tuần lễ Khoa học-Công nghệ VinFuture 2025, ông Nguyễn Đỗ Dũng - đồng sáng lập và Giám đốc Điều hành của Enfarm đã có bài diễn thuyết truyền cảm hứng trước đông đảo nhà khoa học quốc tế, chia sẻ cách trí tuệ nhân tạo (AI) đang biến nông nghiệp thành một chủ thể tái tạo cho trái đất.

Thông qua hai nền tảng SaaS sáng tạo là Enfarm App và Enfarm FM, công ty đã tạo cơ hội cho cả nông dân và doanh nghiệp đưa ra những lựa chọn thông minh hơn, bền vững hơn. Ông Nguyễn Đỗ Dũng đã có những chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân về sản phẩm "make in Vietnam" góp phần vào sản xuất nông nghiệp bền vững.

Công nghệ mở đường cho nông nghiệp xanh

Phóng viên: Ý tưởng khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp của ông gặp phải những thách thức gì ở thời điểm đầu triển khai?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Chúng tôi bắt đầu ý tưởng về công nghệ này khi trăn trở làm thế nào tạo ra tương lai có tính tái tạo bền vững hơn thông qua chuyển đổi nông nghiệp? Hiện nay, 60% phân bón được sử dụng mà không được hấp thụ, 120 tỷ USD bị lãng phí vì phân bón, 34% diện tích bị thoái hóa vì sử dụng phân quá mức.

Câu hỏi đặt ra là: Tại sao cần bón quá nhiều phân bón vậy, trong khi mỗi trang trại có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau. Làm sao các công ty phân bón sản xuất được loại sản phẩm phù hợp được cho tất cả các trang trại? Cách chúng ta giải quyết nhu cầu trong tương lai sẽ như thế nào? Nhất là trong bối cảnh nhu cầu lương thực sẽ tăng 70% (theo FAO) và Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng 0.

Chúng tôi đi đến sáng kiến khảo sát đất, thổ nhưỡng, thu thập dữ liệu; ứng dụng Internet vạn vật trong đưa ra công cụ đo cảm biến đất, đo các chỉ số độ ẩm, nhiệt độ đất và các yếu tố khác. Thiết bị có thể kết nối điện thoại thông minh, nhỏ gọn, dễ dùng. Thông qua trí tuệ nhân tạo (AI), công cụ này có thể đề xuất từng giải pháp cho người nông dân phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, hỗ trợ người dân phân tích, đưa ra khuyến nghị, đi kèm giảm phát thải.

Khởi nghiệp công nghệ vốn đã khó, khởi nghiệp phần cứng còn khó hơn, và phần cứng trong nông nghiệp thì đúng nghĩa gấp bội. Chúng tôi phải tự nghiên cứu, tự làm sản phẩm mẫu, rồi đưa ra thực địa để thử nghiệm với đủ thứ biến động. Ví dụ như không có sóng điện thoại thì cảm biến hoạt động thế nào? Chuột cắn dây thì sao? Mưa lớn làm nước tràn vào thiết bị? Hay đơn giản là thói quen nông dân khác xa suy nghĩ của kỹ sư. Hệ sinh thái sản xuất trong nước còn yếu khiến chất lượng giai đoạn đầu chưa ổn định. Nói thật, đó là muôn vàn thách thức.

Phóng viên: Ông và đội ngũ vượt qua giai đoạn khó khăn ấy như thế nào để mang công nghệ phục vụ cho bà con vào thực tiễn?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Một phần là nỗ lực, một phần là… liều. Nhưng cũng phải nói là chúng tôi may mắn khi nhận được các quỹ hỗ trợ, các gói tài trợ phi lợi nhuận từ Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế. May mắn thứ hai là được làm việc với nông dân Việt Nam. Họ rất thông minh, cởi mở, dám thử cái mới. Đặc biệt là nông dân Tây Nguyên. Họ đa phần là người di cư từ vùng khó, nên rất cầu tiến, chịu khó và ham tiếp cận công nghệ.

na-02017.jpg

Tây Nguyên là thị trường đầu tiên và lớn nhất của chúng tôi. Khi hợp tác với Viện Khoa học Kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, chúng tôi có được nền tảng khoa học rất vững chắc. Những thử nghiệm đầu tiên đều được thực hiện tại vườn thực nghiệm của viện. Đây là nơi họ mang tri thức nông nghiệp, còn chúng tôi mang tri thức công nghệ. Sự phối hợp đó là nền móng quan trọng.

Phóng viên: Thời điểm mang công nghệ ấy ra thực tiễn, có điều bất ngờ nào xảy ra với cả nhóm không, thưa ông?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Mỗi ngày đều có “bất ngờ”, mà thường là thất vọng nhiều hơn. Công nghệ lúc đầu hay lỗi, thiết bị hỏng, không có sóng điện thoại, thói quen nông dân khác xa suy nghĩ của kỹ sư. Chúng tôi liên tục làm và sửa trong khi nguồn lực rất hạn chế. Nhưng càng làm càng hiểu thực tế, và sản phẩm ngày càng hoàn thiện, phù hợp hơn với nhu cầu thật của nông dân.

Phóng viên: Theo ông, giá trị mà công nghệ này mang đến cho nông dân để thuyết phục họ ngay lập tức sử dụng là gì?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Enfarm của chúng tôi là một công ty công nghệ nông nghiệp tại Việt Nam ứng dụng AI và IoT giúp nông hộ nhỏ theo dõi sức khỏe đất đai, tối ưu hóa việc sử dụng phân bón và nâng cao năng suất nhờ các khuyến nghị cá nhân hóa từ AI, giúp tăng năng suất lên tới 30%, đồng thời cũng giúp giảm lượng phân bón sử dụng tới 30%. Điều này không chỉ giảm chi phí và phát thải, mà còn giúp nông dân đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững, có thể đạt được các chứng chỉ nhờ vào việc thương mại công bằng và sản xuất có trách nhiệm.

Trong khi đó, Enfarm FM cung cấp cho các doanh nghiệp nông nghiệp bộ công cụ mạnh mẽ để quản lý vùng nguyên liệu, giám sát hiệu suất và báo cáo các chỉ số ESG một cách minh bạch. Bằng cách kết nối dữ liệu từ nông trại đến doanh nghiệp, Enfarm đang xây dựng một hệ sinh thái số đáng tin cậy, hỗ trợ khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và thúc đẩy tăng trưởng tái tạo.

Khi áp dụng công nghệ này, người nông dân thấy ngay là tiết kiệm phân bón và chỉ dùng đúng loại cần thiết. Những người theo dõi vài vụ thì thấy năng suất cây trồng tăng. Nhất là các cây giá trị cao như sầu riêng, hiệu quả thể hiện rất rõ. Người nông dân cũng chia sẻ lại nhiều câu chuyện thú vị như có khi họ dùng thiết bị theo cách mình không ngờ tới, nhưng vẫn mang lại hiệu quả.

Thiết bị có độ chính xác cao, chi phí thấp, hiệu quả hơn khi tiết kiệm phân bón và giảm phát thải từ phân bón. Công cụ này phân tích được năng suất, thông báo cho người dân cho cơ quan quản lý… Người nông dân có thêm dữ liệu về “sức khỏe” của đất, và xử lý thổ nhưỡng.

Dĩ nhiên, trong quá trình đó cũng không thiếu hồ nghi và không thật sự tin tưởng. Tôi nhớ nhất là khi tài trợ cuộc thi cà phê đặc sản. Anh Trịnh Đức Minh, Chủ tịch Hiệp hội Cà-phê Buôn Ma Thuột yêu cầu kiểm chứng khoa học cho từng công bố. Lúc đó cả đội khá lo, nhưng hóa ra đó lại là cơ hội tuyệt vời. Khi thuyết phục được anh Minh, chúng tôi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ cộng đồng khoa học, và uy tín sản phẩm được củng cố đáng kể.

Sản phẩm được ra mắt từ năm ngoái, hơn 1.200 cảm biến được lắp đặt, 70% đã được bán online. Khách hàng 60% là người nông dân. So sánh với sản phẩm khác trên thế giới, thiết bị nhỏ, hữu ích, giá cả cạnh tranh, sẵn sàng phục vụ 550 triệu nông trại ở các thị trường phát triển và thị trường phân tán (châu Á, châu Phi), trang trại hữu cơ.

Phóng viên: Điều gì khiến ông quyết định chọn nông nghiệp để khởi nghiệp?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Có ba lý do.

Thứ nhất, nông nghiệp gần gũi với mọi người Việt. Ai cũng có gia đình, họ hàng gắn với nông thôn.

Thứ hai, tiềm năng của nông nghiệp Việt Nam rất lớn. Người nông dân cực kỳ giỏi: đất nhỏ, điều kiện không lý tưởng nhưng họ đưa Việt Nam thành cường quốc nông sản: từ cà-phê, tiêu đến sầu riêng. Đây là thành tựu của nghị lực và sự bền bỉ.

Thứ ba, đội ngũ của chúng tôi có nền tảng tốt: có người hiểu sâu về nông nghiệp, có chuyên gia công nghệ, có kinh nghiệm thực địa. Tôi gọi đây là hội tụ của “thiên thời-địa lợi-nhân hòa”.

Hiện chúng tôi làm chủ khoảng 80% công nghệ: phần mềm và AI hoàn toàn do kỹ sư Việt Nam phát triển. Phần cứng cần đầu tư lớn hơn vì liên quan đến dây chuyền sản xuất và vật liệu. Đó là lý do chúng tôi cần thêm vốn và hệ sinh thái công nghiệp trong nước.

Phóng viên: Nghiên cứu đất và cây giúp ông nhận ra điều gì quan trọng nhất?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Chúng giống cơ thể con người nhiều hơn ta nghĩ. Nếu một tuần anh chỉ ăn một bữa thật to, anh không thể khỏe được. Cây cũng vậy, bón phân theo kiểu “no dồn, đói góp” làm đất thoái hóa và cây không hấp thụ được. Khi có công nghệ và dữ liệu, chúng ta hiểu được cây và đất cần gì như bác sĩ hiểu bệnh nhân. Chăm đất, chăm cây đúng cách thì vừa hiệu quả kinh tế, vừa bảo vệ môi trường.

Người nông dân sẽ có kinh tế tự chủ dựa trên dữ liệu

Phóng viên: Ông nhiều lần nhấn mạnh vai trò dữ liệu. Vậy dữ liệu quan trọng thế nào với nông dân?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Dữ liệu của thế kỷ 21 giống như dầu mỏ của thế kỷ 20. Có dữ liệu thì quyết định chính xác hơn – trong nông nghiệp, kinh tế, thậm chí quốc phòng. Điều quan trọng là chúng ta xây dựng hệ thống dữ liệu tích hợp, và trao quyền sở hữu dữ liệu cho chính người nông dân.

Tôi thích triết lý này: EnFarm cung cấp cho nông dân dữ liệu của chính họ, tức là trao lại quyền làm chủ mảnh đất của họ. Khi biết đất cần gì, cây thiếu gì, họ tự tin hơn, ít bị tác động bởi thời tiết hay thị trường. Đó là kinh tế tự chủ dựa trên dữ liệu.

Phóng viên: Việc thu thập dữ liệu hiện nay được thực hiện thế nào, thưa ông?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Có hai nguồn dữ liệu, đó là mua dữ liệu quốc tế và thu thập từ người dùng. Dữ liệu từ nông dân rất quý, nhưng cần thời gian để họ hình thành thói quen cung cấp. Giống như đi khám bệnh, muốn chẩn đoán đúng thì phải hỏi kỹ. Chúng tôi đang tìm cách khiến việc thu thập dữ liệu trở nên tự nhiên và đơn giản nhất với họ.

na-02137.jpg

Phóng viên: Theo ông, công nghệ của Enfarm đóng góp gì cho nông nghiệp bền vững?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Người nông dân thực ra hiểu rất rõ tác hại của hóa chất. Họ muốn canh tác sạch, nhưng họ chịu nhiều rủi ro như mưa bão, sâu bệnh, giá nông sản thấp nên họ cần công cụ và động lực kinh tế. Công nghệ của chúng tôi giúp giảm phân bón, bảo vệ đất, tăng năng suất và giảm chi phí. Khi có lợi ích kinh tế, người nông dân chuyển đổi sang mô hình bền vững ngay lập tức. Thực tế ngành cà-phê Việt Nam là thí dụ khi tỷ lệ canh tác bền vững thuộc loại cao nhất thế giới.

Phóng viên: So với thế giới, ông cho rằng Việt Nam đang ở đâu trong ứng dụng AI nông nghiệp?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Chúng ta mới ở giai đoạn đầu, nhưng tiến rất nhanh. Chúng ta có nhân lực tốt, còn nông dân thì nhìn thấy lợi ích là sẵn sàng ứng dụng. Nếu được hỗ trợ mạnh, Việt Nam hoàn toàn có thể vượt nhiều quốc gia khác. Đừng quên: sản phẩm “made in Vietnam” bán nhiều nhất thế giới chính là nông sản. Chúng ta xuất khẩu 60 tỷ USD nông sản mỗi năm – đó là thương hiệu mạnh, và là nền tảng tốt để phát triển công nghệ nông nghiệp.

Phóng viên: Mục tiêu tiếp theo của ông trong phát triển công nghệ này là gì?

Ông Nguyễn Đỗ Dũng: Mục tiêu là làm sao để mọi nông dân Việt Nam đều có thể dùng công nghệ này. Và để làm điều đó, chúng tôi phải làm 3 việc: Mở rộng sang nhiều loại cây trồng; giảm giá thành; và làm cho sản phẩm thật dễ dùng. Hai việc đầu–cuối chúng tôi tự làm được, nhưng giảm giá cần sự hỗ trợ của Nhà nước. May mắn là các cơ chế mới như Nghị quyết 57 đã tạo điều kiện tốt hơn.

Tương lai của nông nghiệp là dữ liệu. Nông trại sẽ vận hành qua dữ liệu và người nông dân sẽ được hưởng lợi từ việc sản xuất xanh như bán được nông sản giá cao hơn, nhận tín chỉ carbon nhờ giảm phân bón. Khi dữ liệu được tích hợp xuyên suốt chuỗi cung ứng, người tiêu dùng chỉ cần mở điện thoại là biết sản phẩm được trồng thế nào. Đó là tương lai chúng tôi hướng tới.

Xin cảm ơn ông Nguyễn Đỗ Dũng!

Nguyễn Đỗ Dũng là đồng sáng lập và Giám đốc Điều hành của Enfarm. Dưới sự lãnh đạo của ông Dũng, Enfarm đã đạt được sự công nhận toàn cầu: được chọn vào Top 50 dự án AI của Diễn đàn Hòa bình Paris (2025), đoạt Giải Thưởng Market Readiness tại AgriFood Tech World Championship (2024), lọt Top 3 tại Chương trình Thử thách đổi mới sáng tạo Qualcomm Việt Nam (2025).

Chỉ trong vòng một năm sau khi ra mắt, Enfarm đã phục vụ nông dân tại 14 tỉnh của Việt Nam, mở rộng quốc tế với hợp đồng phủ 30.000 hécta tại Philippines, bắt đầu triển khai dự án thử nghiệm tại châu Phi nhằm chống sa mạc hóa và tăng cường an ninh lương thực - thúc đẩy sứ mệnh của ông: biến các nghiên cứu đột phá thành giải pháp quy mô lớn, hướng đến nông dân.

Tuần lễ Khoa học và Công nghệ VinFuture, ông Dũng đã chia sẻ với các nhà khoa học về những đổi mới sáng tạo của Việt Nam đang góp phần định hình xu hướng toàn cầu hướng tới nền nông nghiệp thông minh, toàn diện và bền vững.

Xem thêm