Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 áp dụng nhiều biện pháp công nghệ và quản lý môi trường tiên tiến. (Ảnh: PHONG SƠN)
Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 áp dụng nhiều biện pháp công nghệ và quản lý môi trường tiên tiến. (Ảnh: PHONG SƠN)

Giảm phát thải khí mê-tan, vấn đề cấp thiết

Trong việc ứng phó biến đổi khí hậu, khí CO2 thường được nhắc đến nhiều nhưng khí mêtan (CH4) mới là tác nhân chính làm tốc độ nóng lên toàn cầu nhanh chóng, gấp khoảng 80 lần khí CO2 trong 20 năm đầu tồn tại trong khí quyển.

Do vậy, giảm phát thải khí mê-tan mang tính cấp thiết, không chỉ là cam kết mà còn là cơ hội để đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn.

Tại Hội nghị COP26, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu khởi xướng Cam kết giảm phát thải khí mê-tan toàn cầu với mục tiêu giảm 30% phát thải khí mê-tan vào năm 2030 so với năm 2020. Đây là cam kết thực hiện một cách tự nguyện, không ràng buộc về mặt pháp lý nhưng đã thu hút hơn 150 quốc gia tham gia, thể hiện sự đồng thuận rộng rãi về tầm quan trọng của việc cắt giảm khí mê-tan trong ngắn hạn.

Việt Nam không chỉ tuyên bố đồng hành với cam kết tại diễn đàn quốc tế, mà còn cụ thể hóa bằng một kế hoạch hành động gắn với an ninh khí hậu, sức khỏe cộng đồng và mô hình phát triển kinh tế trong nước. Khí mê-tan góp phần trực tiếp vào nóng lên toàn cầu, làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan.

Đồng thời, đây là tiền chất tạo ô-zôn tầng đối lưu, gây ô nhiễm không khí, ảnh hưởng tới hệ hô hấp, làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Rò rỉ mê-tan trong khai thác nhiên liệu còn tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ, làm ô nhiễm nước mặt, nước ngầm. Nếu quản lý tốt, giảm phát thải mê-tan có thể biến “bài toán môi trường” thành cơ hội để nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí y tế, mở ra không gian cho những ngành kinh tế xanh mới.

Theo kiểm kê khí nhà kính năm 2020, tổng phát thải mêtan của Việt Nam khoảng 111,28 triệu tấn CO2 tương đương ở ba lĩnh vực chính là nông nghiệp, chất thải và năng lượng.

Theo kiểm kê khí nhà kính năm 2020, tổng phát thải mêtan của Việt Nam khoảng 111,28 triệu tấn CO2 tương đương ở ba lĩnh vực chính là nông nghiệp, chất thải và năng lượng. Trong đó, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất phát thải khoảng 69,55 triệu tấn CO2tđ, chiếm hơn một nửa tổng phát thải mê-tan. Lĩnh vực chất thải khoảng 26,43 triệu tấn CO2tđ, chủ yếu từ bãi chôn lấp chất thải rắn và xử lý, xả nước thải. Năng lượng phát thải khoảng 15,3 triệu tấn CO2tđ, trong đó phát thải phát tán từ khai thác, vận chuyển, xử lý dầu khí và than chiếm phần lớn.

Ngày 5/8/2022, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan, trong đó xác định rõ mục tiêu đến năm 2030, tổng phát thải phải giảm ít nhất 30% so với mức năm 2020. Hướng đi đã rõ, nhưng hành trình giảm không hề dễ dàng.

Trước hết là bài toán nguồn lực. Công nghệ thu hồi, xử lý, tận dụng mê-tan dù ở bãi rác, mỏ than hay nhà máy khí đều đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Trong khi đó, cơ chế tài chính xanh, tín dụng ưu đãi, quỹ đầu tư môi trường… mới đang ở giai đoạn hình thành, quy mô còn nhỏ, thủ tục chưa thật sự thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận.

Ở khu vực nông thôn, việc thay đổi tập quán sản xuất của hàng triệu hộ nông dân cũng là thách thức không nhỏ. Thói quen canh tác lúa ngập nước quanh năm, đốt phụ phẩm sau thu hoạch, xử lý chất thải chăn nuôi theo cách truyền thống… nếu không đi kèm các mô hình hiệu quả, hỗ trợ kỹ thuật và lợi ích kinh tế rõ ràng thì rất khó thay đổi bền vững.

Một nút thắt quan trọng khác là dữ liệu và năng lực giám sát. Nhiều hệ số phát thải đặc trưng cho Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng; hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định ở cấp cơ sở còn chưa đồng bộ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới việc đánh giá kết quả giảm phát thải, cũng như khả năng tham gia sâu vào thị trường các-bon và huy động nguồn lực quốc tế.

Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng đôi khi chưa thật sự chặt chẽ. Giảm phát thải mê-tan từ một bãi rác hay một vùng lúa không chỉ là việc của một ngành mà liên quan đến quy hoạch đất đai, tài chính công, chính sách hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp, khoa học-công nghệ…

Giảm phát thải mê-tan vừa giúp giảm nhanh tốc độ nóng lên, vừa mang lại những lợi ích tức thời về chất lượng không khí, sức khỏe cộng đồng và hiệu quả sử dụng tài nguyên.

Tiến sĩ Lương Quang Huy, Cục Biến đổi khí hậu

Theo Tiến sĩ Lương Quang Huy, Cục Biến đổi khí hậu, giảm phát thải mê-tan vừa giúp giảm nhanh tốc độ nóng lên, vừa mang lại những lợi ích tức thời về chất lượng không khí, sức khỏe cộng đồng và hiệu quả sử dụng tài nguyên. Ở lĩnh vực nông nghiệp, đặt trọng tâm vào hai “điểm nóng” là lúa nước và chăn nuôi.

Với lúa, hướng đi chính là thay đổi phương thức canh tác, áp dụng rộng rãi các mô hình tưới ngập khô xen kẽ, canh tác thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, mở rộng các mô hình lúa-tôm, lúa-cá phù hợp từng vùng sinh thái. Với chăn nuôi, mục tiêu là tăng tỷ lệ xử lý chất thải bằng công trình khí sinh học (biogas), cải thiện khẩu phần ăn và phương thức quản lý đàn vật nuôi để giảm phát thải từ quá trình tiêu hóa và phân hủy chất thải.

Trong quản lý chất thải, định hướng là chuyển mạnh từ chôn lấp đơn thuần sang xử lý kết hợp thu hồi năng lượng và tài nguyên, tăng tỷ lệ rác được phân loại, tái chế, tái sử dụng. Đề xuất các dự án công-tư (PPP) trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn và nước thải, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng các nhà máy điện từ rác và biogas để giảm phát thải từ bãi chôn lấp. Thiết lập hệ thống giám sát và kiểm kê khí mê-tan tại các cơ sở sản xuất, trang trại chăn nuôi lớn và bãi rác.

Đối với doanh nghiệp cần chủ động đầu tư và ứng dụng các công nghệ giảm phát thải hiệu quả, xây dựng lộ trình, tích hợp mục tiêu giảm phát thải khí mêtan vào chiến lược phát triển bền vững.

Bên cạnh đó, cần xây dựng và hoàn thiện các cơ chế quản lý tín chỉ các-bon, lồng ghép mục tiêu giảm phát thải khí mêtan vào các quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, để các mục tiêu môi trường trở thành một phần cốt lõi của quá trình phát triển...

Xem thêm