Thiên tai đã làm 419 người chết, mất tích, 587 người bị thương; 4.485 nhà sập đổ, 337.110 nhà bị hư hỏng, tốc mái; 874.187ha lúa, hoa mầu, cây trồng khác bị ngập úng; 59.125ha nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại... Tổng thiệt hại ước tính khoảng 97.064 tỷ đồng. So với năm 2024, số người chết do thiên tai có giảm hơn (419/519), nhưng thiệt hại kinh tế lại cao hơn (97.063/91.622 tỷ đồng).
Thực tế cho thấy, trong ứng phó thiên tai, công tác dự phòng luôn đóng vai trò then chốt, trước hết là năng lực giám sát, dự báo và cảnh báo sớm. Những năm gần đây, Nhà nước cùng các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng quốc tế đã đầu tư nâng cao năng lực quan trắc, dự báo. Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, đang mở ra cơ hội mới để nâng cao hiệu quả dự báo.
Ngoài dữ liệu vệ tinh, nhiều thiết bị tự động đo mưa, radar, cảm biến đo nhiệt độ, gió, mực nước, lưu tốc hay dịch chuyển đất đá đang được triển khai, cho phép tích hợp thông tin nhanh hơn, mô phỏng chính xác hơn theo từng địa bàn và truyền tải kịp thời đến người dân. Tuy nhiên, do thiên tai ngày càng khó lường và đa dạng, công tác giám sát và cảnh báo vẫn còn những hạn chế so với yêu cầu thực tiễn.
Do đó, để nâng cao hiệu quả phòng, chống thiên tai, ngoài sự đầu tư của Nhà nước, việc đẩy mạnh triển khai xã hội hóa, lựa chọn những doanh nghiệp có đủ điều kiện, tiềm lực để đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật xây dựng các mô phỏng cảnh báo cụ thể là cần thiết.
Đồng thời, các địa phương cần nghiên cứu xây dựng mô phỏng rủi ro ngập lụt và sạt lở theo từng vùng, từng cấp độ, từng bước hoàn thiện để phục vụ cảnh báo chủ động. Những công nghệ này chỉ phát huy hiệu quả khi đi cùng đầu tư thiết bị quan trắc, hệ thống cảnh báo và một bộ máy vận hành ổn định, được duy trì lâu dài.
Một thí dụ điển hình là 17 năm qua, Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai đã huy động nguồn lực xã hội để lắp đặt gần 1.000 trạm đo mưa và cảnh báo lũ tự động; hiện tiếp tục phối hợp hỗ trợ thiết bị đo mặn, cảnh báo sạt lở, xây dựng hệ thống cảnh báo số và đội xung kích phòng, chống thiên tai ở cơ sở; tích hợp quản lý trên các ứng dụng điện thoại thông minh, máy tính thông qua các phần mềm.
Để nâng cao hiệu quả phòng, chống thiên tai, ngoài sự đầu tư của Nhà nước, việc đẩy mạnh triển khai xã hội hóa, lựa chọn những doanh nghiệp có đủ điều kiện, tiềm lực để đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật xây dựng các mô phỏng cảnh báo cụ thể là cần thiết.
Về lâu dài, các bên liên quan cần tăng đầu tư cho nghiên cứu cơ bản về các loại hình thiên tai, xây dựng cơ sở khoa học và các mô hình dự báo tiên tiến; hiện đại hóa hệ thống quan trắc, giám sát đa tầng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ viễn thám, ảnh vệ tinh, máy bay không người lái (UAV), mô hình trí tuệ nhân tạo (AI) và khoa học máy tính phân tích dữ liệu lớn trong dự báo, cảnh báo, theo dõi, giám sát, quản lý rủi ro thiên tai; cần tiến tới hoàn thiện, vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thiên tai và biến đổi khí hậu; xây dựng nền tảng quản lý thiên tai trên môi trường số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, đánh giá, phân vùng rủi ro, cập nhật bản đồ rủi ro thiên tai phục vụ công tác chỉ đạo, chỉ huy trong phòng, chống thiên tai; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư trang thiết bị, phương tiện hiện đại, vật tư thiết yếu phù hợp với yêu cầu công tác cứu nạn, cứu hộ trong từng tình huống thiên tai, từng vùng, từng địa phương, nhất là cho cấp xã khu vực có nguy cơ cao, thường xuyên bị chia cắt.