Sợi chỉ đỏ trong chiến lược phát triển Đại học Vùng
Năm 1994, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, các nhà hoạch định chính sách giáo dục nước ta đã có một quyết định mang tính chiến lược: thành lập các đại học vùng. Đây không chỉ là một bước đi táo bạo trong cải cách giáo dục đại học mà còn thể hiện tầm nhìn xa trông rộng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mô hình đại học vùng nhằm tập trung nguồn lực, tạo ra những trung tâm đào tạo và nghiên cứu lớn tại các vùng kinh tế trọng điểm, từ đó góp phần phát triển đồng đều giáo dục đại học giữa các vùng miền.
Trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, mô hình đại học vùng đã chứng minh được tính ưu việt và sự phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Với hệ thống quản trị tinh gọn, các đại học vùng như Đại học Đà Nẵng, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế đã tạo dựng được những thế mạnh vượt trội so với mô hình trường đại học đơn lẻ.
Trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, mô hình đại học vùng đã chứng minh được tính ưu việt và sự phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Lấy Đại học Đà Nẵng làm điển hình, những thành tựu đạt được trong ba thập kỷ qua đã khẳng định vai trò then chốt của mô hình đại học vùng. Đại học Đà Nẵng đã và đang đóng vai trò chủ lực trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực miền trung-Tây Nguyên, khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn. Hằng năm, hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Đà Nẵng đã trở thành lực lượng nòng cốt tại các cơ quan, doanh nghiệp, tập đoàn lớn, góp phần định hình và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của vùng.
Đại học Đà Nẵng còn là trung tâm nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế quan trọng của miền trung, với nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng có giá trị, nhiều công trình khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín. Vai trò tư vấn, phản biện chính sách và hỗ trợ phát triển địa phương của Đại học Đà Nẵng cũng được các cấp chính quyền đánh giá cao, đặc biệt trong các lĩnh vực như phát triển công nghiệp chip bán dẫn, công nghệ tài chính, xây dựng Trung tâm Tài chính khu vực và Khu Thương mại tự do tại thành phố Đà Nẵng.
Một trong những thành công rõ nét nhất của mô hình đại học vùng là sự phát triển mạnh mẽ của các trường đại học thành viên. Nhờ được hưởng lợi từ hệ sinh thái chung, các trường thành viên Đại học Đà Nẵng không ngừng lớn mạnh cả về quy mô lẫn chất lượng.
Đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng nhanh, điển hình như Trường đại học Bách khoa có tỷ lệ giảng viên trình độ Tiến sĩ trên 77%, cao nhất nước; hay Trường đại học Sư phạm, tỷ lệ Tiến sĩ tăng nhanh, đã đạt gần 67%, cao gấp đôi so với mức bình quân chung cả nước khoảng 32%. Chương trình đào tạo được cập nhật nhanh chóng, linh hoạt theo nhu cầu thị trường lao động, đáp ứng tốt yêu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Các trường thành viên cũng tích cực mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút sinh viên nước ngoài, nâng cao vị thế và uy tín trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh hiện nay, khi Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt ra yêu cầu sắp xếp tinh gọn hệ thống giáo dục đại học, mô hình đại học vùng một lần nữa chứng tỏ sự phù hợp và hiệu quả của mình. Đại học Đà Nẵng hiện có bảy trường đại học thành viên, nhưng chỉ là một đầu mối duy nhất trong quan hệ đối nội và đối ngoại. Điều này có nghĩa là thay vì Bộ Giáo dục và Đào tạo phải quản lý trực tiếp bảy trường đại học riêng lẻ, Bộ chỉ cần làm việc với một đầu mối là Đại học Đà Nẵng. Nếu không có mô hình đại học vùng, số lượng trường đại học trực thuộc Bộ sẽ tăng lên đáng kể, gây khó khăn trong công tác quản lý, điều hành và không phù hợp với tinh thần tinh gọn bộ máy mà Đảng và Nhà nước đang quyết tâm thực hiện.
Tầm quan trọng của đại học vùng
Lợi ích của mô hình đại học vùng không chỉ dừng lại ở đào tạo mà còn thể hiện rõ trong nghiên cứu khoa học. Các đề tài nghiên cứu liên ngành, đòi hỏi sự kết hợp giữa nhiều chuyên gia từ các lĩnh vực khác nhau, sẽ được triển khai hiệu quả hơn khi các trường thành viên cùng chung một mái nhà đại học vùng. Điều này không chỉ giúp tăng cường công bố quốc tế, tăng số lượng trích dẫn khoa học mà còn nâng cao uy tín, cải thiện thứ hạng của các đại học Việt Nam trên các bảng xếp hạng thế giới. Kinh nghiệm cải cách giáo dục đại học của Pháp là một minh chứng thuyết phục cho xu hướng này.
Trước đây, hệ thống giáo dục đại học của Pháp gồm nhiều trường đại học chuyên ngành, các đại học chuyên sâu về một lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, sau khi nhận thấy những hạn chế của mô hình này trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế, Pháp đã tiến hành cải cách mạnh mẽ, tổ chức lại thành các đại học lớn bằng cách sáp nhập các đại học và trường đại học trong cùng một vùng. Kết quả là các đại học Pháp đã nâng cao đáng kể vị thế và khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
Với những thành tựu đã đạt được và tiềm năng to lớn, Đại học Đà Nẵng hoàn toàn có thể phát triển để trở thành đại học hình mẫu cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Với những thành tựu đã đạt được và tiềm năng to lớn, Đại học Đà Nẵng hoàn toàn có thể phát triển để trở thành đại học hình mẫu cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Kết luận số 45 của Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã chọn Đại học Đà Nẵng là một trong bốn đại học được đầu tư trọng điểm. Đây là bước đi chiến lược, nối tiếp quyết định mang tính lịch sử thành lập Đại học vùng Đà Nẵng năm 1994.
Để mô hình đại học vùng nói chung và Đại học Đà Nẵng nói riêng phát huy tối đa tiềm năng, cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo thông qua các chính sách cụ thể.
Trước hết, cần giao quyền tự chủ mạnh mẽ hơn cho các đại học vùng trong tất cả các mặt hoạt động, từ tổ chức bộ máy, tuyển dụng nhân sự, mở ngành đào tạo mới, đến quản lý tài chính và hợp tác quốc tế. Tự chủ là chìa khóa để các đại học có thể linh hoạt thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động và xu hướng phát triển khoa học công nghệ.
Thứ hai, trong bối cảnh không còn tổ chức Hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục đại học, cần giao cho tập thể lãnh đạo đại học vùng được thực hiện các nhiệm vụ của Hội đồng trường, đảm bảo tính liên tục trong quản trị và phát triển chiến lược.
Trong kỷ nguyên mới, khi đất nước đang quyết tâm vươn lên trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, vai trò của giáo dục đại học, đặc biệt là các đại học vùng, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Việc thực hiện Kết luận số 45 của Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là bước đi chiến lược, góp phần xây dựng một hệ thống giáo dục đại học nước nhà mạnh, cân đối giữa các vùng miền, đủ sức cạnh tranh với các đại học hàng đầu trong khu vực và thế giới.