Sản phẩm lụa của Làng nghề dệt lụa Nha Xá, Hà Nam (cũ) đa dạng từ lụa hoa, đũi đến lanh. (Ảnh: PV)
Sản phẩm lụa của Làng nghề dệt lụa Nha Xá, Hà Nam (cũ) đa dạng từ lụa hoa, đũi đến lanh. (Ảnh: PV)

Cơ hội vàng từ 5.400 làng nghề Việt với thị trường toàn cầu hàng nghìn tỷ USD

Việt Nam sở hữu hơn 5.400 làng nghề truyền thống, phong phú và đa dạng: mây tre đan, gốm sứ, thêu dệt, đúc đồng, chạm khắc gỗ, trang sức, đá quý… Doanh thu các làng nghề đạt khoảng 75 nghìn tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng dự kiến 8,7% giai đoạn 2024-2032, cho thấy ngành còn nhiều dư địa phát triển với mức tăng trưởng toàn cầu.

Sáng 11/12, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam phối hợp với Sở Công thương tỉnh Ninh Bình tổ chức Hội thảo “Tư vấn hỗ trợ xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn”.

Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1.007 tỷ USD vào năm 2023, hướng đến con số 1.107 tỷ USD vào năm 2024 và 2.394 tỷ USD vào năm 2032.

Phát biểu tại hội thảo, Nhà giáo Ưu tú Trịnh Quốc Đạt, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam khẳng định, thủ công mỹ nghệ luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị gia tăng cao. Cứ 1 triệu USD xuất khẩu các sản phẩm này mang lại lợi nhuận gấp 5-10 lần so với nhiều mặt hàng khác, trong khi nguyên phụ liệu nhập khẩu chỉ chiếm 3-3,5% giá trị xuất khẩu. Ngành tạo việc làm cho hơn 5 triệu lao động nông thôn và đóng góp đáng kể vào ngoại tệ quốc gia.

chutichlnvn.jpg
Nhà giáo Ưu tú Trịnh Quốc Đạt, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.

Sự phục hồi của ngành du lịch, đặc biệt du lịch quốc tế, trở thành động lực thúc đẩy thủ công mỹ nghệ khi nhiều sản phẩm được sử dụng làm quà lưu niệm, đồng thời quảng bá văn hóa Việt Nam. Xu hướng sử dụng vật liệu tự nhiên và nhu cầu trang trí nhà cửa gia tăng sau đại dịch cũng tạo thêm cơ hội phát triển.

Tuy nhiên, theo Chủ tịch Trịnh Quốc Đạt, ngành vẫn đối diện nhiều thách thức: các cơ sở quy mô nhỏ, sản xuất tự phát theo vùng, chưa liên kết theo chuỗi giá trị; năng lực thiết kế, đổi mới mẫu mã còn hạn chế; kênh phân phối và thương mại điện tử chưa khai thác hiệu quả; tiêu chuẩn quốc tế chưa đồng bộ, ảnh hưởng khả năng cạnh tranh trên thị trường khó tính.

lnvn-nb3.jpg
Hội thảo là dịp để các doanh nghiệp, cơ sở làng nghề trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Ở góc độ địa phương, đại diện Sở Công thương tỉnh Ninh Bình cho biết, cả nước hiện có khoảng 5.400 làng nghề và làng có nghề, trong đó riêng tỉnh Ninh Bình sở hữu hơn 250 làng nghề. Hoạt động xúc tiến thương mại đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và cơ sở công nghiệp nông thôn trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ. Việc triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại sẽ giúp các làng nghề, doanh nghiệp, sản phẩm thủ công mỹ nghệ tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, gia tăng giá trị kinh tế bền vững và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương.

Theo Sở Công thương tỉnh, sở hữu mạng lưới làng nghề phong phú, với các ngành nghề truyền thống như đá mỹ nghệ, đúc đồng, thêu ren, dệt thủ công, mây tre đan, gỗ mỹ nghệ, Ninh Bình có nhiều sản phẩm này không chỉ mang giá trị văn hóa mà còn tạo việc làm, thu nhập cho lao động nông thôn, đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội địa phương.

Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp tại Ninh Bình đã cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, tham gia các chuỗi cung ứng xuất khẩu và tiếp cận thị trường quốc tế. Tuy nhiên, cơ sở, hộ gia đình vẫn chủ yếu hoạt động theo hình thức thủ công, nhỏ lẻ; liên kết chuỗi giá trị hạn chế, gây khó khăn cho việc đáp ứng đơn hàng lớn và ổn định chất lượng. Khả năng sáng tạo sản phẩm, đổi mới mẫu mã còn hạn chế; nhiều sản phẩm vẫn mang tính truyền thống, khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế đòi hỏi tiêu chuẩn cao. Năng lực marketing, thương mại điện tử và kênh phân phối quốc tế của các cơ sở còn hạn chế.

Theo Tiến sĩ Tôn Gia Hóa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, để nâng cao năng lực cạnh tranh, cần quy hoạch làng nghề hợp lý, phát triển thương hiệu, cải tiến mẫu mã và sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, cơ chế chính sách cần hỗ trợ đồng bộ từ nguyên liệu, sản xuất đến xúc tiến thương mại, kết hợp với các FTA như EVFTA, CPTPP, RCEP… mở rộng cơ hội xuất khẩu.

theurennb.jpg
Đổi mới thiết kế, chuyển đổi số, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam hướng tới thị trường toàn cầu 2.394 tỷ USD năm 2032.

Đông đảo chuyên gia, đại biểu thống nhất rằng, chính sách trong giai đoạn tới cần chuyển từ hỗ trợ bao cấp sang tăng cường năng lực cốt lõi và ứng dụng công nghệ mà trọng tâm là đột phá về thiết kế, nâng cao giá trị gia tăng; triển khai xúc tiến thương mại trên nền tảng số; minh bạch hóa thủ tục thuế, hải quan để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Việc làm đó sẽ giúp thủ công mỹ nghệ Việt Nam khẳng định giá trị thực sự, cạnh tranh trên thị trường quốc tế và phát triển bền vững trong nền kinh tế số.

Theo các đại biểu, khi đồng bộ, ngành sẽ đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 5 tỷ USD vào năm 2025, duy trì tăng trưởng đến năm 2030, đồng thời quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Nhân dịp hội thảo, các đại biểu cũng thực tế tại Làng nghề dệt lụa Nha Xá - Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia với hơn 700 năm tuổi, được khởi nguồn từ thời Trần, tương truyền do danh tướng Trần Khánh Dư dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Lụa Nha Xá mềm mịn, bền đẹp, từng vang danh từ Sài Gòn đến Hồng Kông thế kỷ XX.

Ngày nay, với 90% hộ dân làm nghề, làng vận hành gần 400 máy dệt, sản xuất 50-80 nghìn mét lụa mỗi tháng, từ lụa hoa, đũi đến lanh. Dù hiện đại hóa, khung dệt thủ công vẫn lưu giữ hồn quê.

Xem thêm