Vượt qua giới hạn của đường nền đắp
TS Phan Hữu Duy Quốc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bê-tông Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Xây dựng số 1 cho rằng cầu cạn là lựa chọn mang tính tất yếu nếu muốn bảo vệ châu thổ và sinh kế hàng chục triệu người dân. Thực tế, đường cao tốc truyền thống trên nền đất đắp đang gặp ba nút thắt lớn ở ĐBSCL: thiếu vật liệu, tác động tiêu cực tới hệ sinh thái, và rủi ro từ biến đổi khí hậu. Nguồn cát từ thượng nguồn Mêkông đã giảm chỉ còn 1/10 so với trước đây. Khai thác cát sông ồ ạt gây sạt lở, còn dùng cát biển chưa xử lý lại khiến đất canh tác nhiễm mặn. Bên cạnh đó, những tuyến đường nền đắp cao vô tình trở thành “con đê” chia cắt đồng bằng, cản trở dòng chảy, ngăn phù sa, phá vỡ cân bằng tự nhiên. Trong bối cảnh mực nước biển dâng và sụt lún diễn biến nhanh, đường nền đắp đối mặt nguy cơ hư hỏng, phải duy tu tốn kém.
Theo ông Quốc, nếu chỉ tính chi phí xây dựng ban đầu, cầu cạn có vẻ tốn kém hơn. Nhưng xét trên vòng đời công trình - gồm bảo trì, khấu hao, rủi ro thiên tai và chi phí cơ hội do tiến độ - cầu cạn lại vượt trội. Công trình ít hư hỏng, không cần bù lún, tuổi thọ thiết kế 100 năm, gần như miễn nhiễm với lũ lớn và xâm nhập mặn.
Những tuyến cao tốc như Châu Đốc -Cần Thơ - Sóc Trăng có thể “lướt qua” hàng trăm tuyến kênh rạch mà không cần phá vỡ địa hình. Đây là lợi thế đặc biệt mà đường nền đắp khó đáp ứng, nhất là khi cần hoàn thành nhanh và đồng bộ mạng lưới hạ tầng.
TS Phạm Viết Thuận, Viện Kinh tế Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: “Cầu cạn thể hiện ưu thế vượt trội ở những khu vực có địa hình vùng đất yếu như ĐBSCL, cần được triển khai ngay. Trên thế giới, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore... đã triển khai phương án này từ lâu”.
Từ giải pháp kỹ thuật đến tầm nhìn chiến lược
Nhiều chuyên gia cho rằng cầu cạn sẽ giúp rút ngắn tiến độ thi công và giảm thiểu chi phí bảo trì – duy tu sau này. Nhưng nếu không có một chiến lược lớn cho ĐBSCL, hạ tầng sẽ phát triển manh mún, mỗi nơi một kiểu, thiếu đồng bộ và kém hiệu quả.
Tổng công ty Xây dựng số 1 hiện triển khai giải pháp cầu dầm bản ngắn trên cọc bê-tông dự ứng lực cường độ cao (PRC) - công nghệ được tối ưu hóa cho điều kiện nền đất yếu và môi trường sông nước miền Tây. Cọc PRC làm từ bê-tông C80 dự ứng lực ly tâm, gia cường tăng độ dẻo và chịu lực ngang, đường kính 700-1.000 mm. Dầm bản bê-tông C60 có sườn, nhịp 9-12 m, trọng lượng nhẹ, dễ cẩu lắp, không dùng gối cầu và khe co giãn, giúp giảm chi phí bảo trì. Mặt cầu bê-tông C35 đổ tại chỗ, liên kết liền khối với dầm, nâng cao độ bền và ổn định.
TS Phan Hữu Duy Quốc cho biết: “Chúng tôi đang dẫn dắt một Nhóm Nghiên cứu Giải pháp cầu cạn gồm 10 công ty cả trong lẫn ngoài nước. Các giải pháp được đưa ra sẽ rất linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tế của từng khu vực. Sáng kiến này không chỉ tạo ra giá trị thiết thực cho các dự án công trình giao thông, mà còn thể hiện tâm huyết cống hiến cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đồng thời, nó cũng trở thành nguồn cảm hứng lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp trong ngành xây dựng, thúc đẩy sự hợp tác và đổi mới sáng tạo”.
Nếu cầu cạn được coi là chiến lược hạ tầng quốc gia cho ĐBSCL, lợi ích sẽ vượt xa phạm vi giao thông. Nó sẽ tạo cú hích cho ngành vật liệu xây dựng và kỹ thuật cầu đường trong nước, thúc đẩy nội địa hóa công nghệ, hình thành chuỗi cung ứng “Make in Vietnam” từ bê-tông cường độ cao tới kết cấu dầm và thiết bị thi công.
Một số dự án đã chứng minh tính khả thi của cầu cạn. Vấn đề hiện nay là chuyển từ những đoạn thử nghiệm sang triển khai đồng loạt, gắn với quy hoạch tổng thể giao thông vùng, liên kết với đường thủy-đường bộ, phát triển logistics và đô thị-nông thôn.