Công trình thủy lợi, nơi cung cấp nguồn nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt của người dân.
Công trình thủy lợi, nơi cung cấp nguồn nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt của người dân.

Bảo đảm nước sạch theo tiêu chí thủy lợi: Nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng nông thôn mới

Trong xây dựng nông thôn mới, tiêu chí thủy lợi, nước sạch giữ vai trò then chốt, trực tiếp nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm an sinh cho người dân. Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai, hàng nghìn công trình cấp nước tập trung ở nhiều địa phương đang xuống cấp, thiếu nguồn lực đầu tư, gặp khó khăn trong quản lý, vận hành.

Hoàn thiện quản lý để nâng cao hiệu quả công trình cấp nước

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hiện nay cả nước có khoảng 18.000 công trình cấp nước tập trung, cung cấp nước sạch cho 55% dân số nông thôn. Tuy nhiên, khoảng 6.000 công trình (30%) có quy mô nhỏ, công nghệ đơn giản và chủ yếu do Ủy ban nhân dân xã hoặc cộng đồng quản lý nên không được bố trí vốn duy tu, bảo dưỡng, dẫn tới xuống cấp, hư hỏng.

z7270518837835-0228754a9c4cb889576a559317fde27a.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Văn Anh nhấn mạnh: “Muốn nâng cao hiệu quả cấp nước nông thôn, cần hoàn thiện chức năng quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương, đồng thời ổn định mô hình đơn vị sự nghiệp theo hướng tinh gọn, phù hợp từng vùng.”

Theo đó, tại khu vực thuận lợi, các đơn vị sự nghiệp sẽ trực tiếp quản lý và vận hành công trình; còn ở vùng núi, vùng khó khăn, Nhà nước sẽ đặt hàng hoặc giao kế hoạch cho các đơn vị sự nghiệp triển khai, đồng thời có chính sách hỗ trợ vận hành đối với công trình giao cho cộng đồng quản lý.

Song song, Cục đang đẩy mạnh rà soát và hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật liên quan cấp nước nông thôn. Những chính sách đặc thù hỗ trợ vùng khó khăn, vùng khan hiếm nước, miền núi, hải đảo cũng đang được xây dựng để bảo đảm người dân tiếp cận nước sạch với chi phí hợp lý.

“Chúng tôi nghiên cứu cơ chế tín dụng để thu hút doanh nghiệp đầu tư; đồng thời có lộ trình tính đúng, tính đủ giá nước nông thôn, nhưng vẫn bảo đảm chính sách hỗ trợ hộ nghèo,” ông cho biết.

Chất lượng nước sạch, yêu cầu then chốt cần giám sát chặt

Trong bối cảnh nhiều nguồn nước suy giảm, ô nhiễm và biến đổi khí hậu tác động ngày càng rõ nét, đảm bảo chất lượng nước sạch đạt chuẩn trở thành nhiệm vụ trọng yếu.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Văn Anh khẳng định: “Chất lượng nước là yêu cầu bắt buộc. Mọi giải pháp về kỹ thuật, quản lý và vận hành đều phải hướng tới mục tiêu bảo đảm nước cung cấp đạt quy chuẩn theo quy định.”

Để duy trì chất lượng nước, Cục đã chỉ đạo các địa phương triển khai các nhiệm vụ theo Chiến lược Quốc gia cấp nước và vệ sinh nông thôn đến năm 2030; tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật cho các công trình quy mô nhỏ; ứng dụng công nghệ giám sát chất lượng nước; xây dựng cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý vận hành mạng lưới cấp nước; và hướng dẫn lựa chọn công nghệ phù hợp từng vùng miền.

Việc duy trì chương trình tập huấn hằng năm cho các đơn vị cấp nước, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa, là giải pháp giúp nâng cao năng lực vận hành và bảo đảm công trình hoạt động bền vững.

Nhiều khó khăn đòi hỏi cơ chế đặc thù cho giai đoạn 2026-2030

Trong quá trình thực hiện tiêu chí thủy lợi và nước sạch, nhiều địa phương gặp không ít thách thức. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Văn Anh chỉ rõ 6 nhóm khó khăn nổi bật:

Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách trung ương cho công trình thủy lợi và nước sạch rất thấp so với nhu cầu, trong khi việc lồng ghép các nguồn vốn khác lại khó khăn do khác biệt cơ chế.

Thứ hai, hầu hết công trình ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đã đầu tư từ lâu năm, nhiều hạng mục hư hỏng nặng vì chịu ảnh hưởng của thiên tai.

Thứ ba, suất đầu tư tại vùng khó khăn rất cao, lợi nhuận thấp khiến việc thu hút doanh nghiệp đầu tư hay huy động đóng góp của người dân gặp nhiều hạn chế.

Thứ tư, quy định về quản lý và quyết toán kinh phí bảo trì công trình còn thiếu cụ thể, khiến địa phương lúng túng.

Thứ năm, một số nơi chưa quan tâm đúng mức đến việc đánh giá tiêu chí thủy lợi, nước sạch; số liệu báo cáo còn chậm, thiếu chính xác.

Thứ sáu, năng lực quản lý, vận hành công trình thủy lợi nhỏ và cấp nước nông thôn còn hạn chế, đặc biệt với mô hình cộng đồng quản lý nhưng không có kinh phí đào tạo.

Để tháo gỡ các vướng mắc trên, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã phối hợp Văn phòng Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng báo cáo tổng kết giai đoạn 2021-2025 và đề xuất định hướng giai đoạn 2026-2030.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Văn Anh cho biết: “Chúng tôi đề xuất ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu tư cho công trình thủy lợi và cấp nước nông thôn; đồng thời hoàn thiện cơ chế, chính sách và hướng dẫn thực hiện tiêu chí thủy lợi - nước sạch phù hợp thực tiễn địa phương.”

Việc lồng ghép cả ba chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ giúp huy động hiệu quả các nguồn lực, tránh dàn trải, trùng lặp.

Nước sạch không chỉ là nhu cầu thiết yếu của người dân mà còn là nền tảng cho phát triển sản xuất, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và nâng cao chất lượng đời sống nông thôn. Những giải pháp về quản lý, đầu tư, hoàn thiện thể chế và áp dụng công nghệ hiện đại mà Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đang triển khai sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả cấp nước nông thôn, hướng tới mục tiêu mọi người dân được tiếp cận nước sạch bền vững.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Lương Văn Anh khẳng định: “Cục sẽ tiếp tục phối hợp các bộ, ngành và địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp; bảo đảm tiêu chí thủy lợi và nước sạch không chỉ hoàn thành theo kế hoạch mà thực sự đi vào cuộc sống, nâng cao chất lượng nông thôn mới”.

Xem thêm