Mô hình kết hợp vườn, ao góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho cây nhãn.
Mô hình kết hợp vườn, ao góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho cây nhãn.

Những mùa nhãn trái vụ

Bài 2: Nông dân thời đại mới

Từ 1,5 mẫu đất trũng quanh năm ngập nước - vốn bị coi là “trồng lúa không đủ ăn, bỏ hoang thì tiếc”, ông Hoàng Quang Tuấn (xã Chí Minh, tỉnh Hưng Yên) đã gây dựng nên một trang trại kiểu mẫu, nơi nhiều đoàn nông dân trong và ngoài tỉnh tìm đến tham quan, học hỏi. 

Không chỉ có những mùa nhãn trái vụ, trang trại còn là hệ sinh thái canh nông khép kín nhãn-cá-bưởi, được nuôi dưỡng theo triết lý của người đàn ông sinh năm 1971: Hiểu cây như hiểu người, làm nông như cuộc đời.

Rải vụ, tránh rủi ro

Nhiều lần bắt gặp những người bán nhãn rong ruổi khắp các tỉnh, thành phố phía bắc, rồi thấy họ ở các hội chợ xúc tiến thương mại từ hồ Tây, Công viên Thống Nhất, Sơn Tây (Hà Nội) đến Hạ Long (Quảng Ninh), chúng tôi rất thấm thía nỗi vất vả của người trồng cây ăn quả. Năm nay, nhãn được mùa thì mất giá, đến khi được giá thì mất mùa, đến vụ thu hoạch lại phải tranh nhau người, tranh nhau bán. Mà nhãn chín thì không đợi ai cả.

Thường thì nhãn chính vụ rơi vào tháng 6, tháng 7, mùa thu hoạch ồ ạt, quả chín đồng loạt, dễ rớt giá. Người trồng phải bán gấp, trong khi nhãn lại khó bảo quản, khó xuất khẩu do sản xuất nhỏ lẻ, dư lượng thuốc cao, giống chưa đồng bộ. Đó là lý do để những người như ông Tuấn hay ông Phạm Đức Long, Giám đốc Hợp tác xã Nông sản sạch Minh Bảo (thôn Bình Kiều, xã Khoái Châu) tự hỏi, tại sao họ không thể bán nhãn vào tháng 2, tháng 3 hay tháng 11, tháng 12… khi thị trường trống, giá cao và nhu cầu vẫn lớn? Từ suy nghĩ này, họ bắt đầu hành trình can thiệp để cây ra hoa nghịch vụ, với suy nghĩ rằng, không thử làm sao biết được thành công hay không.

Và thành công đã đến với ông Tuấn khoảng những năm 2017, 2018 khi ông thu hoạch được 20 tấn quả cả chính vụ và trái vụ. Thời điểm đó, không ai tin có nhãn trái vụ và thực tế đến giờ cũng vậy.

Thực ra là tại Hưng Yên thời điểm đấy, ông Long cho biết cũng đã tự mày mò nghiên cứu trồng nhãn trái vụ. Tuy nhiên, 20 năm qua, ông vẫn phải thừa nhận rằng, dù hiệu quả kinh tế cao, việc trồng nhãn trái vụ không dễ dàng do điều kiện thời tiết ở miền bắc thất thường, khắc nghiệt. Điều đáng nói là kinh nghiệm mà ông tích lũy đã được nhiều người bạn áp dụng thành công ở Tây Nguyên với giống nhãn T6.

Theo ông Tuấn, kinh nghiệm mà ông thu được lại không dựa trên một quy tắc hay sách vở nào mà từ những trải nghiệm thất bại trong rất nhiều lần can thiệp trên cây, ở từng giống nhãn. Mỗi giống nhãn lại có tập tính riêng, chỉ một lần can thiệp sai thời điểm cũng có thể làm hỏng cả cây, nhưng ông cho rằng, “không ai làm thì ông làm, làm rồi thế nào cũng thành công”. Vì thế, nếu Hợp tác xã Nông sản sạch Minh Bảo chọn hướng đi hữu cơ, vừa bảo đảm môi trường, sự an toàn cho người tiêu dùng, vừa nâng cao giá trị của nhãn Hưng Yên thì ông Tuấn vẫn “liều” với rải vụ.

Theo ông Tuấn, trồng nhãn rải vụ có nhiều cái hay, không chỉ tăng hiệu quả kinh tế mà còn giúp giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật. Về điều này, chúng tôi chợt nhớ câu “Đêm tháng 5 nằm nghe cỏ mọc”, ý chỉ từ mùa xuân sang mùa hè, cây cối đâm chồi nảy lộc, sâu bọ phát triển theo, thời tiết nóng ẩm, nấm bệnh phát triển nhiều. Nếu làm rải vụ tháng 6, tháng 7, khi quả lớn trong mùa thu, ong, sâu bọ đi ẩn, chỉ còn sương mai. Khi ấy, họ không phải phun thuốc trừ sâu, can thiệp nhiều, đồng nghĩa hoa quả sẽ rất sạch. Và ở mùa rét, ruồi, ruồi vàng cũng đi ẩn. Nói ngắn gọn, trồng nhãn chính vụ thì người nông dân lợi dụng thời tiết, trồng nhãn trái vụ thì phụ thuộc vào bản thân họ, chỉ là họ mất công chăm chút nhưng khi cây ra hoa có thể xem là đã thành công.

Trên tất cả, nhãn trái vụ có thể xuất hiện vào những dịp thị trường cần, nhất là ngày Tết, mùa lễ hội và bán rất được giá.

Trên tất cả, nhãn trái vụ có thể xuất hiện vào những dịp thị trường cần, nhất là ngày Tết, mùa lễ hội và bán rất được giá. Chẳng hạn như ở trang trại Tuấn Giang, với khoảng 450 cây có thể cho từ 20-25 tấn quả chính vụ nhưng ông Tuấn thường dành 30-40% số cây để trồng trái vụ, chủ yếu là giống T6 và siêu ngọt.

Cây không đi một mình

Trang trại Tuấn Giang không chỉ có nhãn. Ngay từ khoảng sân trước ngôi nhà của gia đình ông, phóng tầm mắt ra đã thấy cả một vùng cây trái xanh mát: Những hàng bưởi ven bờ ao tỏa bóng rợp, xa hơn là những tán nhãn trĩu quả lấp lánh trong nắng. Hai bên khu nhà, những ao cá rộng thênh thang, mặt nước trong veo, lăn tăn sóng gợn như đang khẽ thì thầm với gió.

Ông lý giải: “Tôi trồng cây, nuôi cá theo kiểu hỗ trợ nhau. Nước ao bơm lên tưới cây; phân ủ từ cá lại bón cho đất; cây cho bóng mát, chắn gió, ao giữ ẩm cho vườn”.

Một hệ sinh thái khép kín, đơn giản mà bền vững. Thực tế, bưởi không chỉ là cây phụ. Nó vừa đa dạng nguồn thu, vừa giúp ông “chia trứng vào nhiều giỏ”. Khi nhãn mất mùa, có bưởi đỡ. Khi cá bán được giá, ông lấy đó quay vòng.

Không chỉ am hiểu trồng cây, ông Tuấn còn dày dạn kinh nghiệm nuôi cá. Ông thường chia sẻ bí quyết cho những ai muốn học hỏi bằng một câu quen thuộc của nhà nông: “Trồng cây xem lá, chăm cá nhìn nước, đục nước béo cò”.

Theo ông, chỉ cần quan sát đàn cò cũng đoán được tình trạng ao cá: Sáng ra, thấy cò bay thẳng xuôi thì yên tâm, nhưng nếu chúng bay vòng tròn trên mặt ao thì nghĩa là cá đang gặp vấn đề, người nuôi phải kiểm tra ngay. Bởi cò vốn ăn tép, nơi nào có mùi tanh hay cá chết bốc mùi thì chúng xuất hiện.

Đến giờ, kinh nghiệm nuôi cá và trị bệnh cho cá của ông Tuấn đều đã được người dân quanh vùng áp dụng. Trước đây, sản lượng cá của họ chỉ khoảng 2 tạ/sào thì với cách làm của ông, con số ấy giờ tăng gấp 10 lần, lên 2-2,5 tấn/sào. Bí quyết nằm ở việc kết hợp kiến thức tự học với ứng dụng máy móc, nhất là máy quạt nước, giúp điều hòa môi trường ao nuôi. Nhờ đó, dù là ao 7 sào hay ao rộng 1,4 mẫu, năm nào gia đình ông Tuấn cũng thu hoạch cá đạt năng suất cao.

Không chỉ cá, 350 gốc bưởi trong vườn cũng mang lại nguồn thu ổn định, khoảng 20.000-30.000 quả mỗi năm. Năm nay, sản lượng dự kiến còn khoảng 20.000 quả do ông vừa chặt rễ. Dẫn chúng tôi đi thăm từng cây bưởi được bọc quả cẩn thận để phòng sâu bệnh, ông Tuấn giải thích: “Cứ vài năm phải chặt rễ một lần để cây thuần lại, quả sẽ ngọt nước, không bị dày vỏ”.

Trăn trở về đất và nước

Nhìn cơ ngơi bề thế hôm nay, mỗi ngày thường có ba đến bốn người làm thuê, vào vụ là bảy đến tám người, ít ai nghĩ điều khiến ông Tuấn trăn trở nhất không phải nợ nần, đầu ra cho nhãn, bưởi hay cá giống, mà lại là đất. Không phải chuyện chăm đất thường ngày, mà là hạn mức giao đất. Theo quy định, đất công chỉ được đấu thầu 5 năm một lần, khiến người nông dân khó dám đầu tư lâu dài. “Có lúc tưởng bị thu hồi, tôi mất ăn mất ngủ”, ông Tuấn nói, giọng chùng xuống.

Chính sự ngắn hạn ấy khiến nhiều diện tích công điền bị bỏ hoang, lãng phí, vì người dân ngần ngại đầu tư. Ông Tuấn cho biết, để nông sản sạch, sản lượng cao và bền vững, người nông dân cần yên tâm gắn bó lâu dài với đất, trong khi hạn mức giao đất ngắn là chưa đủ, chưa kể thiên tai rình rập mỗi năm. Bởi thế, ông nhiều lần phải tự nhủ mình cứ cố gắng, cứ chăm chỉ làm rồi đâu sẽ vào đó…

Bỏ qua những trăn trở về đất đai, trong xu thế cách mạng công nghiệp 4.0, ông Tuấn ấp ủ xây dựng một hệ thống tưới tiêu hiện đại cho trang trại. Hệ thống cũ từng bị hỏng do ngập lụt năm 2008, giờ ông mong có đường nước mới để chủ động điều tiết: Tưới theo ngày, theo tháng hay theo từng khu vực.

Xa hơn, ông và nhiều người nông dân ở Thôn 1 nói riêng, tỉnh Hưng Yên nói chung muốn gây dựng thương hiệu nông sản riêng, tìm đầu ra bền vững sau khi tham dự lớp tập huấn về thương mại điện tử do Sở Công thương tỉnh Hưng Yên tổ chức mới đây. Dự định của họ là bán hàng trực tuyến ngay tại vườn, quay video, trò chuyện với khách để khách hiểu rõ quy trình trồng và thu hoạch nhãn sạch. Và họ đều mơ ước biến trang trại thành điểm du lịch trải nghiệm, nơi du khách và trẻ em có thể tham quan vườn cây, hái quả, câu cá, thử làm nông dân và lắng nghe những câu chuyện từ chính người trồng.

Thời gian tới, xã sẽ nghiên cứu đưa cây nhãn trái vụ vào quy hoạch chung của ngành nông nghiệp địa phương, với kỳ vọng giúp nông dân nâng cao thu nhập.

Ông Đào Văn Huân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Chí Minh

Những điều ấy được ông Tuấn chia sẻ trong lúc dẫn chúng tôi đi một vòng tham quan trang trại. Ông bộc bạch, mục tiêu lớn nhất của cuộc đời mình là từng bước đưa toàn bộ 450 gốc nhãn vào trồng rải vụ, để mỗi tháng đều có khoảng 50 cây cho thu hoạch quả. Liên quan đến hướng đi này, ông Đào Văn Huân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Chí Minh cho biết, thời gian tới, xã sẽ nghiên cứu đưa cây nhãn trái vụ vào quy hoạch chung của ngành nông nghiệp địa phương, với kỳ vọng giúp nông dân nâng cao thu nhập.

Dưới ánh chiều vàng, người nông dân với dáng vẻ khắc khổ ấy vẫn lúi húi tưới gốc nhãn, chỉnh máy sục khí cho ao cá, ngắm những quả bưởi tròn căng. Người thất bại, người thành công trong nỗ lực trồng nhãn trái vụ nhưng ở Hưng Yên, có lẽ không ai “liều” như ông. Có lẽ thế mà từ trang trại này, từ mảnh đất này, những kinh nghiệm mà ông tích lũy qua bao năm đã trở thành mô hình để nhiều nơi tìm đến học hỏi, như một cách gieo thêm niềm tin vào ruộng đồng quê hương.

Xem thêm