Hướng dẫn người dân thực hiện thủ tục hành chính tại Điểm phục vụ hành chính công xã Phúc Thịnh, thành phố Hà Nội. (Ảnh: NHẬT NAM)
Hướng dẫn người dân thực hiện thủ tục hành chính tại Điểm phục vụ hành chính công xã Phúc Thịnh, thành phố Hà Nội. (Ảnh: NHẬT NAM)

Sớm hoàn thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức

Bộ Nội vụ đã xây dựng dự thảo Nghị định quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước và đang lấy ý kiến trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.

Xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức là một trụ cột quan trọng của Chính phủ số

Theo Bộ Nội vụ, Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước đã được xây dựng, duy trì trong thời gian qua đạt được những kết quả nhất định. Cụ thể như: Hình thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dữ liệu cán bộ, công chức, viên chức; hình thành các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quản lý cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan nhà nước.

Kết quả trên bước đầu cho thấy việc ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số vào công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức đã được quan tâm, triển khai đồng bộ ở các cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy dữ liệu còn thiếu đồng bộ, liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, chất lượng dữ liệu còn hạn chế, có độ trễ trong cập nhật.

Nguyên nhân là do dữ liệu chưa được thu thập, cập nhật ngay trong quá trình xử lý nghiệp vụ trên hệ thống thông tin điện tử hoặc các hệ thống thông tin, phần mềm chưa đáp ứng yêu cầu xử lý nghiệp vụ; thiếu nền tảng quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong đó có chức năng phân tích, khai thác sử dụng dữ liệu hiệu quả dẫn tới chưa phát huy tốt giá trị của dữ liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước cũng như công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành trong lĩnh vực quản lý cán bộ, công chức, viên chức; chưa bảo đảm “đúng-đủ-sạch-sống-thống nhất-dùng chung” như quan điểm chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương tại Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW.

Thực tiễn chuyển đổi số quốc gia thời gian qua, đã chỉ rõ một số tồn tại hạn chế trong xây dựng, kết nối chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị như “việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin còn chưa hiệu quả; chưa phát huy giá trị của dữ liệu”; phát triển ứng dụng, cơ sở dữ liệu chưa gắn liền với hoàn thiện thể chế quy định việc cập nhật, khai thác, sử dụng hiệu quả. Đây cũng là một hạn chế trong thực tiễn phát triển, khai thác sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức trong thời gian qua.

Nghị quyết số 214/NQ-CP ngày 23/7/2025 của Chính phủ ban hành kế hoạch hành động của Chính phủ về thúc đẩy tạo lập dữ liệu phục vụ chuyển đổi số toàn diện đặt mục tiêu Xây dựng và triển khai các nền tảng dùng chung trong toàn bộ hệ thống chính trị, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan Đảng, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các tổ chức chính trị-xã hội, bảo đảm đồng bộ, thống nhất toàn hệ thống chính trị.

Công tác xây dựng dự thảo Nghị định quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước (sau đây gọi tắt là dự thảo Nghị định) hướng tới ba mục đích sau.

Thứ nhất, đổi mới, hiện đại hóa phương thức quản lý cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, tạo nền tảng, tiền đề quan trọng trong xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, dịch chuyển từ phương thức quản lý truyền thống dựa trên giấy tờ sang phương thức quản lý dựa trên dữ liệu, sử dụng hồ sơ điện tử cán bộ, công chức, viên chức thay vì sử dụng hồ sơ giấy trong công tác quản lý, sử dụng, tuyển dụng,… cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ hai, xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức là một trụ cột quan trọng của Chính phủ số; thúc đẩy xây dựng cán bộ, công chức, viên chức số lan tỏa chuyển đổi số trong toàn bộ hệ thống chính trị; thiết lập một hệ thống dữ liệu thống nhất, đầy đủ, chính xác, cập nhật thường xuyên, phản ánh toàn bộ thông tin trong “vòng đời của cán bộ, công chức, viên chức” từ khi được bầu, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng đến khi thôi việc hoặc nghỉ hưu.

Thứ ba, hình thành nền tảng quản lý cán bộ, công chức, viên chức đồng bộ, thống nhất toàn quốc, khai thác và sử dụng hiệu quả Cơ sở dữ liệu quốc gia trong công tác quản lý nhà nước; công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, giải quyết thủ tục quản lý, sử dụng cán bộ, công chức để bảo đảm Cơ sở dữ liệu quốc gia được xây dựng, duy trì, quản lý, khai thác sử dụng hiệu quả.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức phải có tính mở, kết nối, chia sẻ; phù hợp các quy định của pháp luật chuyên ngành.

Quản lý cán bộ, công chức, viên chức khu vực Nhà nước bằng hồ sơ điện tử

Dự thảo Nghị định quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước (sau đây gọi tắt là Cơ sở dữ liệu quốc gia) có 6 chương với 44 điều, 1 phụ lục, với một số nội dung đáng quan tâm.

Đối tượng áp dụng gồm có ba nhóm:

(i) Cán bộ, công chức theo quy định tại Điều 1 của Luật Cán bộ, công chức năm 2025;

(ii) Viên chức theo quy định tại Điều 1 của Luật Viên chức năm 2025. Đồng thời, để bảo đảm thống nhất quản lý, Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao gồm cả người lao động hưởng lương từ ngân sách nhà nước;

(iii) Các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước; Quốc hội; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội. Nghị định này không áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, người làm việc trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và tổ chức cơ yếu.

Điều 7 của dự thảo Nghị định quy định các nguyên tắc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia phải bám sát thực hiện như bảo đảm mục đích của việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia là phục vụ công tác quản lý nhà nước; hoạch định chính sách, pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức dựa trên dữ liệu, công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của các cấp; giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công; quy định nguyên tắc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia phải theo mô hình thống nhất, nhất quán; có mô hình kiến trúc phù hợp với đặc điểm tổ chức bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị Việt Nam, Cơ sở dữ liệu phải có tính mở, kết nối, chia sẻ; phù hợp các quy định của pháp luật chuyên ngành.

Điều 8 của dự thảo Nghị định quy định về dữ liệu của Cơ sở dữ liệu quốc gia, trong đó xác định rõ bao gồm dữ liệu về cán bộ, công chức, viên chức và người lao động (bao gồm các nhóm dữ liệu phản ánh đầy đủ thông tin quy định tại Sơ yếu lý lịch hiện nay), dữ liệu hồ sơ điện tử.

Nội dung Điều 8 cũng xác định dữ liệu nào là dữ liệu chủ của Cơ sở dữ liệu quốc gia, dữ liệu nào là dữ liệu tham chiếu và cơ quan quản lý dữ liệu tham chiếu nhằm mục đích kết nối, chia sẻ dữ liệu;

Tại Điều 9, Điều 10 của dự thảo quy định hạ tầng kỹ thuật Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức, hệ thống thông tin của Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức được lưu trữ, vận hành trên cơ sở hạ tầng của Trung tâm Dữ liệu quốc gia và do Bộ Công an (Trung tâm Dữ liệu quốc gia) chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh, an toàn và vận hành; vai trò, mục đích của hệ thống thông tin Cơ sở dữ liệu quốc gia.

Tại Điều 20, Điều 21, Điều 22, dự thảo Nghị định nêu rõ, hồ sơ điện tử bao gồm sơ yếu lý lịch điện tử, các thành phần hồ sơ dưới dạng điện tử của hồ sơ giấy; mỗi hồ sơ được gắn mã định danh duy nhất phục vụ công tác quản lý trên môi trường số; mã định danh hồ sơ được quản lý thống nhất, đồng bộ với mã sơ yếu lý lịch; hồ sơ điện tử có dạng thức được yêu cầu đồng bộ với hồ sơ giấy, đáp ứng yêu cầu quản lý trên môi trường số thay cho hồ sơ giấy, việc ký nhận, xác nhận các thành phần hồ sơ trên môi trường điện tử thực hiện bằng chữ ký số chuyên dùng đảm bảo đầy đủ yêu cầu như hồ sơ giấy. Dự thảo cũng quy định, chuyển thể từ hồ sơ điện tử sang hồ sơ giấy và ngược lại đối với trường hợp yêu cầu sử dụng hồ sơ giấy trong công tác cán bộ;

Mỗi cán bộ, công chức, viên chức chỉ được khởi tạo 1 hồ sơ duy nhất, có mã định danh để quản lý trong toàn bộ thời gian làm việc công tác trong cơ quan nhà nước, sử dụng thống nhất.

Hồ sơ điện tử của cán bộ, công chức, viên chức được khởi tạo ngay khi cán bộ, công chức, viên chức được bầu, tuyển dụng, gắn liền với quy trình điện tử tuyển dụng trên môi trường số hoặc do cơ quan quản lý, sử dụng khởi tạo.

Dự thảo Nghị định cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính thông qua sử dụng dữ liệu, hồ sơ cán bộ công chức, viên chức điện tử thay thế hồ sơ giấy; sử dụng dịch vụ dữ liệu thay cho các hoạt động báo cáo, tổng hợp, thống kê về cán bộ, công chức, viên chức truyền thống dựa trên giấy tờ.

Văn bản cũng quy định các cơ quan chủ trì xây dựng, cập nhật, phát triển hệ thống thông tin quản lý cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm đồng bộ, kết nối, liên thông với Cơ sở dữ liệu quốc gia, Nền tảng quản lý cán bộ, công chức, viên chức.

Xem thêm